"Nhưng vì thể lực,
nội tạng mỗi người mỗi khác, cũng vì thế, mà thuốc dùng cho mỗi
người cũng khác nhau, hoặc giả có giống, thì dung lượng cũng không
thể tương đồng. Và cũng vì thế mà
người này chỉ uống ít ngày đã khỏi, người kia phải dùng lâu ngày
mới dứt..."
Trong khi tu học chúng ta thường nghe ai đó khuyên
(bảo) những lời đại để: Đừng nên tụng kinh đó; đừng nên tụng chú
đó; Nên tụng kinh này, kinh nọ; nên tụng chú này, chú nọ; hay: thuộc
nhiều Kinh, Chú, thông nhiều pháp như thế sao không tu xuất gia...
nó hay hơn, nó dễ khế nhập nhơn; nó đúng pháp hơn, nó dễ đắc đạo
hơn...v.v.
Thoạt nghe, chúng ta đều thấy thật có lý, rất lấy
làm phấn chấn, và rất có thể chúng ta đã giật mình, hay chạnh lòng
tiếc rẻ về một khoảng thời gian đã qua mà mình đã bỏ ra biết bao
công sức thời gian để học hỏi, nhưng không ngờ ý nghĩa, tác dụng lại
chẳng được như người nói... Và để rồi vì muốn đuổi kịp thời gian,
vì muốn mình phải bằng người, vì muốn để mọi người biết mình cũng
không phải hàng lép vế... nên mình đã gấp rút làm theo bằng được
những lời khuyên nọ...
Tu chính là Sửa. Sửa những lỗi lầm, những sai quấy
đã gây ra và nguyện sẽ không phạm những lỗi lầm, sai quấy đó nữa.
Đó là điều người tu hành dẫu xuất gia hay tại gia đều phải luôn gắng
nguyện và thường xuyên quán chiếu. Tuy nhiên chúng ta cần (nên) Sửa
điều gì? Sửa những gì? Thì đây là điều mà mỗi chúng ta đều phải
tỉnh táo để cân nhắc.
Ví thử ai đó nói (khuyên) với ta: Bỏ kinh này đi, bỏ
chú kia đi; Nên tụng kinh này; nên trì chú này nó mới hay hơn, nó mới
vi diệu hơn; nó mới dễ chứng đắc hơn... Những lời khuyên như thế
chúng ta cần phải thật cẩn trọng để nhìn tận gốc về những lời
khuyên. Bởi thực tế: Các Pháp của Phật nói ra đều đi đến ngọn nguồn
của sự chân thật, chứ không có tính hay hay là dở cả. Do vậy khi ai
đó nói: Kinh này đừng tụng, mà nên tụng kinh kia mới chuẩn, mới hay,
mới đúng chánh pháp; Chú này đừng trì, tụng, mà nên trì, tụng Chú
kia mới thâm sâu, mới đủ công năng, mới vi diệu; Thầy này thuyết pháp không hay, không nên nghe, Thầy kia mới hay, mới nên nghe... thì ngay lúc ấy,
lời người khuyên chúng ta cũng đã sai lệch mất rồi, dẫu cho người đó
thực lòng vì thương, vì muốn giúp chúng ta mà khuyên. Tại sao lại sai
lệch? Nếu hiểu theo đúng giáo lý mà Đức Phật đã dạy thì tất cả
các pháp đều hữu vi, là phương tiện, và giống như thuyền bè, vì thế
Phật mới nói: Các Pháp ấy vốn không phải Phật pháp (Kinh Kim Cang). Bởi
Phật Pháp mà Đức Phật tuyên thuyết trong suốt 49 năm đó không phải là
Ta (Đức Phật) tự ý nói ra, mà ba đời các Đức Phật (quá khứ, hiện
tại và vị lai) cũng đều diễn nói như vậy. Nhưng vì căn tánh (cao-thấp;
thông minh-ngu độn) của chúng sanh mà Phật tìm những Pháp tu cho phù
hợp với căn tánh của những chúng sanh đó để dạy, dẫn. Điều này
cũng giống như việc bác sĩ trị bệnh cho bệnh nhân, muốn chữa cho
bệnh nhân mau lành bệnh, trước hết các bác sĩ cũng phải tìm được
nguyên nhân phát bệnh, kế đó mới kê đơn, bốc thuốc. Nhưng vì thể lực,
nội tạng mỗi người mỗi khác, cũng vì thế, mà thuốc dùng cho mỗi
người cũng khác nhau, hoặc giả có giống, thì dung lượng cũng không
thể tương đồng. Và cũng vì thế mà
người này chỉ uống ít ngày đã khỏi, người kia phải dùng lâu ngày
mới dứt.
Thứ nữa, khi ai đó khuyên (nói) với chúng ta: Pháp
(kinh pháp) này hay, pháp kia dở; Chú này hay, Chú kia dở... thì ngay
lúc ấy cái Pháp, cái Chú mà người muốn khuyên chúng ta đã không còn
là Pháp, Chú nữa rồi. Bởi Pháp và Chú của Phật vốn chỉ có Phật
với Phật mới có thể hiểu chọn vẹn, nói chi tới hạng phàm phu sát
đất như chúng ta? Nói khác đi: Vì sự phân biệt, chấp trước (chấp
Hay-Dở; chấp Cao-Thấp; nhiệm màu-không nhiệm màu; thù thắng-không thù
thắng...). mà khuyên. Và khi sự phân biệt, chấp trước ấy đã nổi lên,
tất xuất phát điểm đã có sự mê mờ, sai lạc rồi, đương nhiên không bao
giờ chúng ta đạt được một kết quả gì, cho dù là nho nhỏ. Do vậy khi
nói tới việc hành trì các Pháp, Chú của Phật các chư Tổ luôn
thường nhắc nhở: Phải tuỳ duyên, tuỳ căn cơ của mỗi người, mỗi chúng
sanh mà khuyên giải và sách tấn.
Đã có một câu chuyện xưa kể về một bà mẹ già,
sống trong một làng quê nghèo, cô quạnh. Người con trai của bà lại đi
tu hành tại một nơi xa. Một mình bà sống trong cảnh túng bần, và vì
thương xót người mẹ già ấy một tu sĩ đắc đạo đã trợ duyên cho bà
bằng việc giúp cho bà một bài Chú và nói bà hãy ráng học thuộc,
rồi mỗi khi cần thổi cơm, hãy trì bài Chú này, lập tức sẽ có nồi
cơm để ăn và sống qua ngày. Bà mẹ già nọ đã nhất tâm học thuộc bài
Chú vị tu sĩ nọ cho, và thường ngày dùng bài Chú đó làm một phương
tiện duy trì mạng sống. Cho tới một ngày kia, người con trai của bà
sau bao năm tháng tu học, nay được trở về thăm mẹ. Nhìn thấy cảnh mẹ
già côi cút, nghèo khổ, hàng ngày chỉ có nồi cơm suông để duy trì
mạng sống, chàng trai lấy làm hổ thẹn và đau xót không nguôi. Nghe mẹ
kể lại câu chuyện nhiệm màu nọ, người con trai ngỡ mẹ già, sanh lẩm
cẩm, chứ Chú nào có thể biến nồi không thành nồi cơm được? Vì vậy
chàng bèn bảo mẹ tụng lại bài Chú mà thường ngày bà vẫn tụng để
thổi cơm, bà mẹ đã làm theo đúng những gì mình đã làm trong suốt
bao năm qua, và quả là sự nhiệm màu đã hiện ra ngay trước mắt người
con trai. Nhưng khi nghe bà mẹ trì Chú, chàng trai phát hiện bà đã
trì sai một số câu, vì thế chàng đã quả quyết nói với mẹ, và
khuyên bà phải trì lại theo đúng bài Chú mình đã được học. Để làm
chứng, chàng đã dùng bài Chú của mình được học để trì, nhưng trì
mãi... nồi cơm nhiệm màu vẫn không xuất hiện...
Coi chừng kẻo lạc bến - Ảnh mang tính minh hoạ (Nguồn: google.com)
Như vậy nguyên nhân thất bại vốn không phải do Chú đúng hay sai (hay-dở), trái lại nó phụ thuộc vào cái Tâm của người trì Chú. Người mẹ già vì không có tâm phân biệt, chấp trước nên bà có niềm tin sắt đá vào bài Chú mà vị Tu sĩ nọ truyền cho, do vậy bà đã có được một phương tiện để duy trì mạng sống; Ngược lại người con, vì chấp nhất vào câu, chữ của bài Chú và quyết muốn mẹ phải sửa lại cho đúng theo những gì mình học được, nhưng vì khởi tâm chấp trước, nên bài Chú mặc dù đúng nguyên ngữ nhưng lại không đạt được kết quả gì.
Bài học cần rút ra là gì? Tín-Nguyện-Hành = Tin
sâu-Nguyện tha thiết-Thực tâm Hành. Đây là ba yếu tố quan trọng bậc nhất
cho người tu hành theo pháp môn của Phật. Dẫu cho đó là tu Thiền, Mật
hay Tịnh thì ba yếu tố trên cũng không thể thiếu. Bởi có Tín mà
không Nguyện cũng giống như người đang khát, biết là nước uống sẽ
giúp cơn khát được tiêu tan, nhưng nhất quyết không uống; Có
Tín-Nguyện mà không Hành cũng giống người ăn mãi mà chẳng no, uống
nước mà chẳng hay nước đó là nóng hay lạnh vậy. Vì thế trong quá
trình tu học, có rất nhiều người (có thể) vì ngưỡng mộ mình, vì thương
mình, thấy mình tu đã lâu, thuộc được nhiều Kinh, nhiều Chú, pháp
nào cũng nói vanh vách... nên đã khuyến nhủ mình nên xuất gia để tu
cho mau đắc đạo. Người tỉnh giác phải nên rành, rõ lời khuyên: Chẳng
lẽ cứ thuộc nhiều Kinh, Chú là có thể đắc đạo được sao? Nếu thế
câu chuyện trì Chú của chàng trai kể trên không thể thất bại. Như vậy
chúng ta nên hiểu: Thuộc Kinh, Chú mới chỉ là có Tín, có Nguyện (có
tin, có nguyện, còn tin sâu và nguyện tha thiết hay không lại là
chuyện khác) còn có Hành (thực tâm hành) hay không thì phải coi ở
chính chúng ta. Người có Tín-Nguyện-Hành dẫu cho tu Thiền, Mật hay
Tịnh, nhìn họ, chúng ta có thể dễ dàng nhận biết được. Bởi người Thực
Tâm Hành (thực tâm tu) tự thân họ sẽ toát ra những hảo tướng khác
với người phàm phu (không tu hành). Cái hảo tướng ấy khác với hảo
tướng của người phàm phu (người phàm phu muốn có hảo tướng phải nhờ
sự trưng diện), còn Hảo Tướng của người Thực-Tu-Hành là do công đức
Tu-Hành mà có được.
Trong Kinh Kim Cang
Bát Nhã Ba La Mật Đa Đức Phật hỏi Ngài Tu Bồ Đề: „Này Tu Bồ Đề! Nơi
ý của ông nghĩ thế nào? Có thể do nơi ba-mươi-hai tướng mà xem là
đức Như-Lai chăng? Ông Tu Bồ Đề bạch rằng:“Đúng thế! Đúng thế! Do nơi
ba-mươi-hai tướng mà xem là đức Như-Lai“. Đức Phật dạy rằng: „Này Tu
Bồ Đề! Nếu do nơi ba-mươi-hai tướng mà xem là đức Như-Lai đó, thời vua
Chuyển Luân Thánh Vương chính là đức Như-Lai rồi!“. Tại sao Đức Phật
lại nói như vậy? Bởi Ngài Tu Bồ Đề còn ngộ nhận giữa sắc tướng (do
trang điểm=không có thật) và đức tướng (do tu hành=trường tồn). Điều
này cũng tương tự như việc ai đó khuyên chúng ta, thấy chúng ta thuộc
làu kinh, chú, và pháp nào cũng nói được, nên cứ ngỡ chúng ta có
thể dễ dàng đắc đạo. Thực tế đó là nhận kiến sai lầm. Chính vì
thế khi nghe Đức Phật nói vậy, Ngài Tu Bồ Đề bèn ngộ ra và nói
rằng: „Bạch đức Thế Tôn! Theo như con hiểu nghĩa lý của Đức Phật
nói, thời chẳng nên do nơi ba-mươi-hai tướng mà xem là đức tướng
Như-Lai“. Và Đức Phật cũng vì nhân duyên đó mà nói bài kệ:
Nếu dùng sắc thấy
ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người ấy tu đạo tà
Chẳng thấy được
Như-Lai.
Như-Lai mà Đức Phật
nói là chỉ tự tánh, sự giác ngộ=Trí tuệ, đức tướng của Phật và
cũng chính là trí tuệ, đức tướng của chúng sanh. Người sống với tự
tánh=người giác ngộ. Nhờ sự giác ngộ mà có trí tuệ và có đức
tướng.
Trong kinh Vô Lượng Thọ đức Phật đã nói: „Như lai
xuất hiện ở đời khó gặp, khó thấy. Kinh đạo của Phật khó gặp, khó
nghe. Gặp thiện tri thức, tiếp nhận Phật pháp có thể tu hành, điều
ấy cũng khó. Nếu nghe kinh này tin tưởng, thọ trì chính là khó nhất
trong những việc khó, không còn có gì mà khó hơn được“.
Chúng ta đời này,
kiếp này có được may mắn gặp được Phật pháp để tu hành, nên chăng
nên Tin sâu-Nguyện tha thiết và Thực tâm hành. Được như thế mới chẳng
luống uổng những hoài vọng của Đức Phật và những tháng ngày ngắn
ngủi của cuộc đời.
Lạc bến hay tới bến đường về thật gần nhưng cũng rất đỗi xa xăm...
Kỷ niệm ngày đức Phật Đản Sanh PL 2557 – 15.05.2013 Huệ
Tâm
0 Kommentare:
Kommentar veröffentlichen