Lời giới thiệu: Thập Thiện Nghiệp Đạo là gì? Tại sao người Phật tử lại phải lấy Thập Thiện Nghiệp Đạo làm nền tảng tu học? Nói khác đi: Thiếu (khuyết) Thập Thiện Nghiệp Đạo người Phật tử có thể tiến tu và đắc thành đạo quả hay không? Thập Thiện Nghiệp Đạo giúp ích gì cho người Phật tử trong quá trình tu học, quán chiếu, thực hành đạo-pháp để tự giác, giác tha...v.v.
Huệ Tâm xin thành kính giới thiệu tới quý Đạo hữu bộ kinh: Phật Thuyết Thập Thiện Nghiệp Đạo do Hòa Thượng Thích Thanh Từ chủ giảng, với lòng mong mỏi, thông qua bộ kinh này mỗi người Phật tử chúng ta sẽ cùng có sự nhìn nhận, học hỏi và rút ra những kinh nghiệm quý báu, bổ ích cho hành trang về cõi Phật của chính mình...
07.09.2013 - Huệ Tâm
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
DL 1998 - PL 2542
LỜI ĐẦU SÁCH
Kinh Thập Thiện là một quyển kinh nhỏ ghi lại buổi
thuyết pháp của Phật cho cả cư sĩ lẫn người xuất gia, hoặc cho các loài thủy tộc
nhẫn đến bậc A-la-hán và Bồ-tát. Xét hội chúng dự buổi thuyết pháp này, chúng
ta nhận định được giá trị quyển kinh thế nào rồi.
Pháp Thập thiện là nền tảng đạo đức, cũng là nấc thang
đầu trên cây thang giải thoát. Cho nên bất cứ người tu tại gia hay xuất gia,
pháp Tiểu thừa hay Đại thừa cũng lấy Thập thiện làm chỗ lập cước căn bản. Bỏ
pháp Thập thiện thì mọi pháp tu khác đều không đứng vững. Vì thế, người học đạo
buổi ban đầu phải thâm nhập pháp Thập thiện, sau đó mới tiến lên tu các pháp
Thiền định…
Song người đời vẫn còn hoang mang chưa quyết định được
nghĩa Thiện và Ác. Bởi vì họ thấy có những việc ban đầu làm dường như thiện, về
sau trở thành ác. Ngược lại, có những việc ban đầu thấy như ác, về sau lại thiện.
Hoặc một hành động, mà ở địa phương này cho là thiện, ở địa phương khác lại cho
là ác, thời gian trước bảo là thiện, thời gian sau nói là ác, khiến mọi người
ngờ vực ý nghĩa thiện ác trên thế gian. Đọc kỹ và nghiền ngẫm chín chắn quyển
kinh Thập Thiện, chúng ta sẽ giải quyết được những hoang mang ngờ vực trên.
Chúng tôi dịch và giảng quyển kinh này, được các Thiền
sinh ghi chép lại và cho ấn hành phổ biến. Để nói lên lòng tùy hỉ của mình, tôi
viết lời đầu sách để giới thiệu với quí độc giả.
THÍCH THANH TỪ
Viết tại Thiền viện Thường Chiếu
Ngày 27-08-1997
* * * * * * *
KINH THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO
Giảng Giải
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối
với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và
nguyện giữ Ngũ giới, nếu chỉ bấy nhiêu giới đó mà tu thì kết quả mạng chung tái
sanh làm người và được an ổn tương đối, chớ chưa tiến xa trên đường giác mà Phật
đã dạy. Thế nên muốn tiến thêm thì phải tu Thập Thiện. Có tu Thập Thiện mới tiến
dần từ vị trí của người tại gia đến xuất gia, hay tiến dần từ cõi người đến cõi
trời và các quả Thánh. Vì vậy, pháp Thập Thiện là bước tiến thứ hai của người
tu tại gia.
Người xuất gia tu hành để được giải thoát thì tu pháp
Tứ đế, hoặc quán Thập nhị nhân duyên hay hành Lục độ vạn hạnh đều phát nguồn từ
Thập Thiện. Nếu không tu Thập Thiện thì dù thực hành pháp gì cũng không giải
thoát được. Nên người xuất gia cũng y cứ pháp Thập Thiện làm gốc, vì chỉ nói
giáo lý cao siêu mà không tu Thập Thiện, e giáo lý cao siêu ấy trở thành huyền
hoặc. Bởi thế Thập thiện đối với người xuất gia rất hệ trọng, chính là nền tảng
đạo đức. Nếu nền tảng căn bản đạo đức ở dưới thiếu, mà muốn tiến lên quả vị
Thanh văn, Duyên giác, hay cầu chứng quả từ Sơ địa đến Thập địa Bồ-tát, hoặc cầu
quả Phật thì khó thành tựu. Vì vậy người xuất gia không thể bỏ qua pháp Thập Thiện
mà tu các pháp giải thoát được. Rộng hơn, pháp Thập Thiện đối với nhân gian, nếu
mọi người biết ứng dụng trong đời sống thì gia đình, xã hội, quốc gia, thế giới
sẽ được văn minh. Nền văn minh đó mới là nền văn minh chân thật. Kinh Thế Ký
thuộc hệ A-hàm có ghi về kiếp tăng và kiếp giảm của nhân loại như sau: “Ở thế
gian vào thời kiếp tăng, con người sống đến tám mươi bốn ngàn tuổi, sau đó giảm
dần còn bảy vạn, sáu vạn, năm vạn... cho tới hai trăm và ngày nay con người sống
khoảng một trăm tuổi. Sở dĩ tuổi thọ và phước báo của con người suy giảm là do
không tu pháp Thập Thiện, mà ngược lại còn làm thập ác. Nếu mười điều ác càng
ngày càng tăng thì phước báo tuổi thọ con người càng ngày càng giảm. Giảm cho đến
khi nào mười điều ác dẫy đầy, không ai còn biết làm thiện và nghe danh từ thiện,
thì tuổi thọ con người giảm xuống tột cùng chỉ còn mười tuổi thôi. Lúc bấy giờ
tai họa cũng tràn trề không thể kể lường, nên nói: ‘thiên tai vạn họa không lường
được’. Nguyên do bởi con người tạo thập ác. Qua kiếp giảm con người làm ác cùng
cực, chợt thức tỉnh tu thiện từ một cho đến mười điều thiện thì, phước báo tuổi
thọ con người tăng dần lên đến tám mươi bốn ngàn tuổi và thế giới trở thành an
lạc hạnh phúc vô cùng.”
Như vậy nếu con người cùng gây ác nghiệp dẫy đầy thì
thế giới tai họa liên miên. Nếu con người biết tu Thập Thiện thì thế giới loài
người an vui như cõi Cực Lạc.
Vậy xã hội loài người muốn được an vui cũng phải lấy
Thập Thiện làm căn bản. Người tu từ cư sĩ tại gia cho đến xuất gia và người thế
gian, nếu biết áp dụng pháp tu Thập Thiện trong cuộc sống thì được bình an hạnh
phúc. Người xuất gia thì mau tiến đến quả giải thoát. Người đời thì phước báo
ngày càng lớn, tuổi thọ ngày càng tăng. Có nhiều người tu nghe nói mười điều
lành, tưởng là pháp tu của người cư sĩ nên xem thường.
Nhưng kỳ thật mười điều lành này, nếu chúng ta tu viên
mãn thì có hiệu dụng tự do giải thoát trong đời tu.
GIẢNG ĐỀ KINH
Kinh Thập Thiện nói đủ là “Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo”.
Kinh là những lời giáo huấn của đức Phật, vừa hợp với chân lý vừa hợp với căn
cơ của người nghe. Dù ở trong bối cảnh nào người nghe ứng dụng tu hành đều được
lợi ích lớn. Lời giáo huấn của Phật trải qua ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai
không dời đổi, không sai lệch, nên được kết tập lại gọi là Kinh.
Thập thiện là mười điều lành. Thế nào là điều lành, thế
nào là điều chẳng lành? Ai cũng khuyên ăn hiền ở lành, làm lành, làm phải, song
bản chất của điều lành như thế nào thì chưa biết rõ. Có nhiều người giải nghĩa:
lành là không dữ, dữ thì không phải lành, hoặc lành là hiền, là tốt… Nói như vậy
là giải thích nghĩa trống rỗng, không có lẽ thật. Người đời có chút trình độ học
vấn, hay lúng túng về vấn đề thiện ác. Giả sử một nhà giáo dạy học trò, gặp học
trò khó dạy nên phải đánh răn phạt nó. Đánh xong cảm thấy lương tâm ray rứt hối
hận, tự trách mình là nhà mô phạm đánh đập
người ta là đã làm điều dữ rồi! Người học trò bị đánh nhìn thầy giáo với đôi mắt
không cảm tình, vì cho thầy giáo là người hung dữ. Vậy, thầy giáo đánh học trò
khi nó ngỗ nghịch khó dạy có phải dữ không? Những việc này cần phải giản trạch
rõ ràng, kẻo hiểu lầm rồi hành động sai. Ngược lại, có nhiều đứa trẻ ngỗ nghịch
thiếu giáo dục, gặp ai nó cũng chửi bới phá phách. Có người biết, không quở
trách không đánh phạt, mà còn mở lời ngọt ngào khen ngợi. Người như thế có hiền
không? Vậy điều lành điều dữ giá trị ở chỗ nào? Chúng ta cần phải phân định cho
rõ ràng, thế nào là điều lành thế nào là điều dữ, để khi làm việc không bị
hoang mang do dự.
Phàm làm việc gì, đứng về mặt thời gian, hiện tại, vị
lai mình và người đều được lợi ích, thì điều đó là lành. Hoặc hiện tại mình bị
thiệt thòi mà người được lợi ích, đó cũng là lành. Hay hiện tại mình bị thiệt
thòi mà tương lai được lợi ích, đó cũng là lành. Ngược lại hiện tại mình được lợi
lộc mà vị lai bị khốn khổ, điều đó không phải là lành. Hoặc hiện tại mình được
lợi mà người bị hại thì điều đó không phải là lành. Ví dụ thầy giáo đánh học
trò, hiện tại thì thấy thầy giáo bị thiệt thòi vì đã lao nhọc lại còn mang tiếng
không tốt. Nhưng vì lợi ích của học trò, mà phải rầy phạt cho nó học và ngoan để
mai sau nó có đủ tài đức, thành người tốt, hữu dụng trong xã hội. Lúc đầu thấy
như thầy giáo bị thiệt thòi và học trò cũng bị thiệt thòi. Nhưng về sau thì học
trò trở thành người tốt trong xã hội, trò biết ơn thầy đã giúp cho trò trở nên
người tài đức. Như vậy cả thầy lẫn trò ở hiện tại bị thiệt thòi mà ở vị lai được
lợi ích. Hoặc thấy người nghèo khổ, ta đem tiền của đến giúp họ. Lúc đầu thấy
như ta bị thiệt thòi vì phải bỏ tiền bỏ công ra để giúp. Nhưng người được giúp
bớt khổ được vui, khi thấy người vui ta cũng vui lây. Vậy hiện tại ta và người
được vui, mai sau cũng được vui. Đó cũng là điều thiện. Ngược lại trường hợp đứa
học trò ngỗ nghịch lêu lổng không chịu học hành, thầy giáo không rầy không phạt,
để nó muốn làm gì thì làm. Hiện tại thấy như ông thầy tốt, vì không có những lời
nói và hành động xúc phạm đến học trò. Nhưng đứa học trò hư hỏng, mai sau trở
thành những người xấu ác trong xã hội. Thái độ của ông thầy như thế không gọi
là lành. Đó là đứng về mặt thời gian mà phân định điều lành hay dữ. Thế nên có
nhiều hành động thoáng thấy như dữ, nhưng bản chất lại là lành. Rồi cũng có nhiều
hành động thoáng nhìn như lành mà bản chất lại là dữ. Như vậy yếu tố lành hay dữ,
phải xét đến hậu quả ở vị lai tốt hay xấu mà đoán định. Chớ cạn cợt nhìn thấy
việc làm ở hiện tại mà quyết đoán e không đúng, mà phải xét tận kết quả ở vị
lai.
Lại nữa, yếu tố thiện ác còn phải đứng về mặt không
gian, điều lợi ích phải đem đến cho nhiều người, mới đoán định được. Nếu một việc
làm có hại chỉ một người mà có lợi hàng trăm hàng ngàn người, thì việc làm đó
cũng được coi là thiện. Trong kinh nói về tiền thân của Phật có kể câu chuyện:
Có một Tôn giả cùng đi thuyền chung với đoàn người buôn. Khi thuyền ra giữa
sông lớn, trong thuyền có kẻ bất lương sắp ra tay giết đoàn người buôn để đoạt
của. Tôn giả liền giết kẻ bất lương đó để cứu đoàn người buôn. Hành động của
Tôn giả tuy ác với người bất lương, nhưng thiện đối với đoàn người buôn. Làm
như vậy tuy có tội với một người mà cứu được nhiều người. Thế nên phân định thiện
ác phải nhìn rộng rãi như vậy.
Đứng về mặt thời gian hiện tại có lợi, vị lai cũng có
lợi, hoặc hiện tại tuy không có lợi mà vị lai thì có lợi. Hoặc giả khi hành động
tuy thiệt thòi một hai người mà vị lai lợi ích cả trăm ngàn người, những trường
hợp như thế được xem là thiện chớ không phải là ác. Hiểu rõ ràng như vậy mới
không lầm, chớ nhiều khi chúng ta cho điều đó là thiện kỳ thật lại là ác. Chẳng
hạn như những bà mẹ cưng con, con muốn điều gì là chiều theo điều ấy, không dám
rầy nó, rốt sau con thành đứa hư hèn. Thoạt nhìn thấy như bà mẹ đó hiền, song rốt
cuộc lại hóa thành dữ, vì làm hư đứa con. Ngày xưa ở Trung Hoa có Khấu Chuẩn,
thuở nhỏ ông lêu lổng rong chơi trốn học hoài. Mẹ ông thấy con hư hèn khó dạy,
bà buồn lòng. Một hôm bà mẹ cầm trái cân chọi ông, trái cân chạm vào chân làm
ông bị thương tích. Nhờ vậy mà ông sợ, không dám trốn học nữa và chăm lo học
hành. Sau ông trở thành người tài giỏi, thì mẹ đã mất. Mỗi khi nhìn thấy vết thẹo
trên chân là ông nhớ mẹ, ông khóc… Thoáng nhìn qua thấy như mẹ ông Khấu Chuẩn
ác, nhưng chính nhờ thái độ cứng rắn của bà, giúp cho Khấu Chuẩn trở thành người
tốt. Vì vậy hành động ném quả cân của bà được xem là thiện.
Trong lãnh vực tu hành, vì không phân biệt được thiện
ác, nên có nhiều người thiện mà lầm tưởng là ác. Chẳng hạn một vài Phật tử vào
chùa thấy thầy Trụ trì phạt mấy chú Điệu quì hương. Mấy chú quì tàn cây hương mất
hơn một tiếng đồng hồ, hai đầu gối bị lõm vào đỏ ửng. Phật tử ấy nóng ruột, ngầm
trách thầy Trụ trì thiếu từ bi, nhẫn tâm hành phạt người tu chịu đau đớn khổ sở.
Như vậy thầy Trụ trì có thiếu từ bi không? - Không. Tại sao? Vì các chú Điệu
vào chùa tu, từ cơm ăn, áo mặc, chỗ ở đến thuốc thang đều do thí chủ ủng hộ
cúng dường. Nếu các chú lười biếng không chịu học Phật pháp, không tụng kinh ngồi
thiền, cứ lêu lổng chơi đùa, thầy Trụ trì không răn phạt, để các chú Điệu hư hỏng
làm sao có đủ đức hạnh và trí tuệ hầu đáp ơn thí chủ? Sau khi chết vì chồng chất
nợ nần nghiệp tội nên bị đọa. Vì tránh tội cho đệ tử, mà thầy Trụ trì phải răn
phạt cho đệ tử sửa đổi. Nếu răn phạt mà không sửa đổi thì phải trục xuất. Hành
động của thầy Trụ trì mới thấy như ác, nhưng xét kỹ thì quá từ bi.
Tóm lại, điều thiện là việc làm trong hiện tại, mình
cùng người đều được lợi ích và nhiều đời vị lai cũng được an vui. Hoặc hiện đời
tuy mình bị thiệt thòi, người cũng có chút ít thiệt thòi, nhưng vị lai mình
cùng người đều được lợi ích an vui. Đó là điều thiện. Ngược lại, việc làm hiện
tại mình có lợi mà di hại cho người, hoặc hiện tại mình có hại, người có hại,
cho đến mai sau mình và người cùng đau khổ. Đó là việc ác.
Nghiệp là tác động của thân khẩu ý lặp đi lặp lại nhiều
lần thành thói quen. Và khi thành thói quen nó có sức mạnh dẫn người đi thọ quả báo hoặc vui
hoặc khổ. Thế thường, người đời khi gặp cảnh sướng hay khổ thì nói số phận mình
như vậy là phải chịu như vậy. Song, nếu là Phật tử có đổ thừa số phận và chấp
nhận số phận như người đời không? - Không. Vì nói như thế thì không thông lý
nhân quả nghiệp báo. Lẽ ra Phật tử khi gặp cảnh khổ hay vui thì phải nói: “do
nghiệp mình đã tạo, nên mình phải chịu”, chớ không nên nói do số phận. Tại sao
như vậy? - Vì nhân quả nghiệp báo rất cụ thể và tế nhị.
Tục truyền lâu đời, chúng ta ai cũng thầm nghĩ rằng:
Con người sanh ra là do Thượng đế hay Tạo hóa sắp định sẵn số phận. Hễ sanh ra
đời, cuộc sống vui khổ như thế nào là chịu như thế ấy, không thay đổi được. Hoặc
có quan niệm: Con người sanh ra là do số mạng đời trước đã định sẵn. Bởi số mạng
định sẵn nên phải sao chịu vậy. Thế nên gặp cảnh khổ, nói “tại số tôi khổ”, gặp
cảnh sướng thì nói “tại số tôi sướng”. Hoặc quan niệm “đời người sanh ra là do
rủi may, rủi thì khổ, may thì vui, được là may, mất là rủi…”, chớ sự sướng khổ
của con người không do nhân duyên. Cả ba thuyết trên, quí vị có người nào không
mắc kẹt không? Nếu không đổ thừa Tạo hóa thì đổ thừa số mạng, không đổ thừa số
mạng thì đổ thừa rủi may. Cả ba thuyết trên Phật giáo không thừa nhận, mà Phật
nói: “Con người sanh ra kẻ khổ người sướng là do nghiệp.” Vậy Nghiệp của đạo Phật
có khác với Tạo hóa, có khác với số mạng, có khác với rủi may không?
Trong kinh A-hàm (Agama) Phật dạy: “Chúng sanh người hạ
liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người vui sướng kẻ bất hạnh, đều do
hạnh nghiệp của chúng.” Những tác động từ nơi tâm gọi là ý nghiệp, nơi miệng gọi
là khẩu nghiệp, nơi thân gọi là thân nghiệp. Thân khẩu ý của con người tạo nên
nghiệp, vì vậy mà khổ vui là do mình tạo, chớ không do ai khác, cũng không phải
Tạo hóa sắp định, cũng không do số mạng hay may rủi gây nên. Thí dụ một chú
thanh niên thương một cô thiếu nữ, nhưng cô thương người khác, nên chú thất
tình đau khổ. Một hôm chú thức tỉnh, tự trách mình là ngu dại. Từ đó chú buông
bỏ tâm luyến ái cô gái ấy, nên hết đau khổ. Như vậy, cái khổ của chú thanh niên
đó do ai tạo? Do cô gái, do Tạo hóa, do số mạng, do rủi may, hay do chú? - Do
tâm ý chú mê lầm nên chú mới khổ! Vậy khi mình khổ đổ thừa ai? - Không đổ thừa
ai cả, mà phải xét lại mình, coi nghiệp mình tạo có lỗi chỗ nào, để chuyển hóa
nó. Chú thanh niên lầm tưởng cô gái thương chú, nên chú thương cô. Nhưng sự thật
thì cô gái thương người khác, nên chú khổ. Khi chú biết chú lầm, liền chuyển
nghiệp ý bằng cách buông bỏ lòng luyến ái cô gái là chú hết khổ.
Lại một ví dụ nữa: Ông A là người tương đối lương thiện,
ông có một người bạn không tốt hay trộm cắp của người. Một hôm người bạn ông trộm
được một món đồ quí, trị giá độ năm bảy triệu đồng. Khi bị mất đồ chủ nhà báo động
tìm kiếm. Bạn ông A tới nhà ông, nói: “Lâu nay ai cũng biết anh lương thiện,
anh làm ơn cất giùm tôi món đồ này, sau tôi bán sẽ chia cho anh vài ba triệu.”
Ông A dấy khởi lòng tham nhận giữ của phi nghĩa đó. Người bạn ăn trộm bị bắt, bị
tra khảo liền khai của quí ấy gởi tại nhà ông A, nên ông A cũng bị bắt lây. Khi
bị bắt ông A ở tù đau khổ. Vậy cái khổ của ông A là tại ai? Có phải tại Tạo hóa
xếp bày cho ông A ở tù không? Hay tại năm nay ông A rủi ro? Hay tại số mạng của
ông A là phải ở tù? Rõ ràng tại ông A không làm chủ được lòng tham, để cho ý
ông tạo nghiệp ác khiến cho thân ông làm ác, nên ông phải chịu khổ. Nếu lúc
lòng tham dấy khởi ông chuyển được, ông từ
chối không nhận cất của phi nghĩa để được chia tiền, thì ông đâu có bị bắt
và bị ở tù vì tội chứa đồ gian! Vậy, trước một hoàn cảnh con người có thể bị khổ
mà cũng có thể không khổ. Nghĩa là chỉ trong năm mười phút đồng hồ, nếu con người
hành động với trí tuệ sáng suốt thì chúng ta chuyển được khổ. Cũng chỉ trong
năm mười phút, con người hành động với tham sân thì bị đau khổ.
Khổ hay không
khổ là do hạnh nghiệp của con người thiện hay ác mà ra vậy. Nếu biết do nghiệp
ý của mình tham lam nên bị tù đày, cố gắng chuyển tâm niệm tham lam trở thành
thanh bạch thì không khổ. Ngược lại không có trách nhiệm với hành động của
mình, cứ đổ thừa cho số mạng, cho rủi may, thì không bao giờ sửa đổi nghiệp chẳng
lành của mình, dĩ nhiên là phải khổ. Đó là tôi nói nghiệp ở hiện tại.
Sau đây là nghiệp ở quá khứ kết tụ quả trong đời hiện
tại và vị lai. Có người vừa được sanh ra là đã giàu sang sung sướng. Như vậy là
do cái gì định? Có phải do số mạng định không?
- Cũng không. Chúng ta nên biết nghiệp quả trong đạo
Phật nói thông cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Nghiệp không phải chỉ
thành tựu quả báo trong một đời. Có nhiều nghiệp tạo trong đời này, quả báo kết
tụ cũng trong đời này, như ông A chứa đồ gian ở trên. Lại cũng có những nghiệp
tạo ở hiện tại, mai sau mới thọ quả báo. Ví dụ ông Xoài hiện tại có thế lực
giàu sang, ông làm khốn khổ ông Mít là người láng giềng. Lúc bấy giờ ông Mít cô
thế nên nuốt hận. Vài mươi năm sau ông Mít có thế lực, ông Xoài thì cô thế, nên
ông Mít báo thù ông Xoài, khiến ông Xoài điêu đứng khổ sở. Khi bị ông Mít báo
thù thì ông Xoài tức tối kêu oan: “Tại sao người ta quá hung ác hại tôi khốn khổ
như thế này?” Quí vị thấy ông Xoài có oan không? - Không. Ông đã tạo nghiệp xấu
với ông Mít mà ông quên, khi quả báo chẳng lành của nghiệp xấu kết tụ thì ông lại
than trách. Đó là do ông không thấy được nghiệp xấu của ông đã tạo.
Lại nữa, nghiệp của đời quá khứ trong kinh A-hàm Phật
nói: “Những chúng sanh nào nơi thân khẩu ý tạo nghiệp ác, thì khi thân hoại mạng
chung phải sanh vào cõi dữ. Ngược lại những chúng sanh nào nơi thân khẩu ý tạo
nghiệp lành, thì khi thân hoại mạng chung được sanh vào cõi lành. Và một phen
sanh ra rồi chết đi, chết đi rồi sanh lại, cứ sanh rồi tử, tử rồi sanh không biết
bao nhiêu lần.” Nhưng mỗi lần sống chết đó, thọ biết bao nỗi khổ niềm vui, do
thân khẩu ý đã tạo nghiệp thiện hay ác ở đời trước. Xin hỏi quí vị lớn tuổi,
xét lại chúng ta từ lúc biết đi đứng nói năng, cho đến nay bốn năm mươi tuổi,
hoặc sáu bảy mươi tuổi, có ai làm lành hoàn toàn không? Hay có khi làm cho người
được lợi ích vui cười, lại cũng có lúc làm cho người buồn phiền đau khổ? Đời
này chúng ta vừa làm lành và cũng vừa làm ác. Lấy đó mà xét, đời trước cũng vậy,
một trăm điều, chúng ta làm được bảy tám chục điều lành là tối đa, còn lại vài
ba chục là điều ác. Vì vậy mà đời này sanh ra tuy cũng được giàu sang sung sướng,
nhưng lâu lâu cũng có xảy ra tai nạn đau khổ. Người không thấu hiểu nhân quả
thông cả ba đời thì sẽ than trách: “Tại sao tôi ăn ở hiền lành, mà gặp phải những
chuyện bất tường khổ đau?” Ở đời có ai
lương thiện hoàn toàn đâu? Như chúng ta thấy trong đời hiện tại tuy biết tu làm
lành, nhưng thỉnh thoảng bất giác cũng làm cho người buồn khổ. Thế nên thỉnh
thoảng chúng ta cũng gặp khổ, cũng có buồn là do nghiệp thiện và ác mà chúng ta
đã tạo xen lẫn ở đời trước đó vậy. Khi gặp khổ đừng đổ thừa cho ai cả, mà phải
biết: Trước mình đã tạo nhân rồi nên đời này phải thọ nhận quả. Và cũng có nhiều
người tuy họ ác, nhưng đâu phải suốt đời họ làm ác hết, mà thỉnh thoảng họ cũng
có làm một hai điều lành. Nên những người nghèo khổ thỉnh thoảng cũng có vài niềm
vui. Vậy muốn cho đời sau được an vui hết khổ thì, ngay bây giờ tránh những việc
khiến cho người đau khổ và làm những việc giúp cho người hiện tại được lợi ích
sau cũng an vui. Đó là tạo nghiệp lành, ngược lại là tạo nghiệp ác.
Như vậy, nghiệp trong đạo Phật khác với số mạng mà người
đời đã nghĩ. Số mạng đã định rồi thì bó tay bất lực, không chuyển đổi được,
đành chịu vậy. Còn nghiệp thì chuyển đổi được. Vì nghiệp là hành vi tạo tác của
con người. Tạo tác xấu ác thì khổ, biết đó là việc ác khổ, liền đổi làm việc
lành thì được an vui. Ví dụ ông Xoài tiêu pha phung phí nên mắc nợ, bị chủ nợ
vây đòi làm phiền phức. Muốn cho hết nợ, ông Xoài phải siêng năng làm việc, ăn
tiêu chừng mực, dành tiền để trả nợ, trả một thời gian là dứt nợ, không ai đến
quấy rầy ông, ông được an ổn. Đó là cách chuyển nghiệp thực tế không ai phủ nhận
được. Nếu tin theo số mạng cho rằng số tôi nghèo phải mang nợ, dù có cố gắng
làm cũng vô ích vì không chuyển đổi được, đành chịu nghèo, nợ nần vây phủ… Chuyển
nghiệp bằng hai cách: Cách thứ nhất là đối trước của cải quí đắt tiền, lòng
tham dấy khởi, biết đó là ý nghiệp ác, liền buông xả niệm tham, thì nghiệp thân
không theo ý để tạo duyên lấy của người, không bị người bắt bớ, bỏ tù, đánh đập
. Đó là chuyển nghiệp ý ác ngay khi khởi. Trường hợp thứ hai là đang ở trong cảnh
nghèo túng bệnh tật, ráng ăn ở hiền lành, làm điều phước đức, khiến cho nghiệp
ác quá khứ mòn dần thì sẽ được an vui. Đó là chuyển nghiệp quá khứ từ từ. Người
hiểu được lý nghiệp báo thì có sức mạnh tinh thần, không yếu đuối trốn tránh
trách nhiệm mà mình đã tạo. Không làm ác gây đau khổ cho người, luôn nghĩ nói
làm thiện, tạo cho mình một cuộc sống lành mạnh an vui, xây dựng xã hội tốt đẹp.
Tóm lại, kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo là mười điều lành, Phật dạy cho chúng sanh
nên làm để đi đến chỗ an ổn vui vẻ.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Kommentar veröffentlichen