"Hết thảy chúng sanh đều do giả nhiều,
thật ít, không có lấy một chánh niệm; do nhân duyên ấy
địa ngục thì nhiều, giải thoát thì ít. Ví như
có kẻ đối với cha mẹ mình và với sư, tăng,
bề ngoài ra vẻ hiếu thuận, trong lòng bất hiếu,
ngoài hiện vẻ tinh tấn, trong lòng chẳng thật. Kẻ
ác như thế, báo tuy chưa đến, tam đồ chẳng
xa, không có chánh niệm, chẳng được giải
thoát..."
(Vạn Tự Tục Tạng Kinh, quyển
87, kinh số 738)
Nguyên bản Hán văn:
http://www.jingtu.org/jtjl/10wsj.htm
Hán dịch: Không rõ tên người dịch
Chuyển ngữ: Bửu Quang tự
đệ tử Như Hòa
Tôi nghe như thế này: Một thời đức
Phật ngự tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà
Quật, cùng với chúng đại tỳ-kheo một vạn
hai ngàn người, đều là đại A La Hán, [là những
vị] được mọi người hay biết, tên các
ngài là: Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha A Na Luật Đà, những vị
như vậy đều làm thượng thủ. Lại cùng
vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát cùng hội, hết thảy
đều trụ địa vị Bất Thoái Chuyển,
trang nghiêm bằng vô lượng công đức, tên các ngài là:
Diệu Cát Tường Bồ Tát, Vô Năng Thắng Bồ
Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức
Bồ Tát, các vị đại Bồ Tát như vậy làm
thượng thủ. Lại có Thích Đề Hoàn Nhân, chủ
thế giới Kham Nhẫn: Đại Phạm Thiên Vương,
Tứ Đại Thiên Vương, trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa
các vị thiên tử thượng thủ như vậy và A
Tố Lạc v.v… vì nghe pháp nên thảy đều đến
dự. Ai nấy lễ dưới chân Phật, lui ra ngồi
qua một bên.
Lúc
bấy giờ, A Nan bạch Phật rằng:
- Thế
Tôn từ khi thành đạo đến nay, trong các pháp để
giải thoát hết thảy chúng sanh được phu diễn
rộng rãi trong kinh điển Đại Thừa, Ngài tuyên
nói pháp “Tây Phương Cực Lạc thế giới vi diệu
tối thắng, thanh tịnh trang nghiêm, bổn thệ nguyện
sâu nặng, công đức chẳng thể nghĩ bàn của
đức Phật A Di Đà, hết thảy chúng sanh vãng
sanh Cực Lạc thế giới”. Chúng con lắng nghe, tin
nhận, tu hành, chưa nghe pháp quán thân, sự ấy như
thế nào? Kính xin Phật giảng cho.
Phật
bảo A Nan:
- Phàm
pháp quán thân chẳng quán Đông Tây, chẳng quán Nam Bắc, chẳng
quán bốn phương bàng, trên dưới, chẳng quán hư
không, chẳng quán ngoại duyên, chẳng quán nội duyên, chẳng
quán thân sắc, chẳng quán sắc thanh, chẳng quán sắc
tượng, chỉ quán vô duyên. Đấy là pháp quán thân chân
chánh, trừ cách quán thân này ra, tìm cầu kỹ khắp mười
phương, nơi nơi chốn chốn, chẳng còn pháp
nào khác để được giải thoát.
Phật
lại bảo A Nan:
- Chỉ
tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự
nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người
tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh,
người như thế chẳng cầu giải thoát mà giải
thoát tự đến.
A
Nan lại bạch Phật rằng:
- Bạch
Thế Tôn! Chúng sanh trong thế gian nếu có chánh niệm giải
thoát như thế, sẽ chẳng có hết thảy địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh ba đường ác.
Phật
bảo A Nan:
- Chúng
sanh trong thế gian chẳng được giải thoát là
vì sao? Hết thảy chúng sanh đều do giả nhiều,
thật ít, không có lấy một chánh niệm; do nhân duyên ấy
địa ngục thì nhiều, giải thoát thì ít. Ví như
có kẻ đối với cha mẹ mình và với sư, tăng,
bề ngoài ra vẻ hiếu thuận, trong lòng bất hiếu,
ngoài hiện vẻ tinh tấn, trong lòng chẳng thật. Kẻ
ác như thế, báo tuy chưa đến, tam đồ chẳng
xa, không có chánh niệm, chẳng được giải
thoát.
A
Nan lại bạch Phật rằng:
- Nếu
là như vậy, nên tu thiện căn nào để được
chánh giải thoát?
Phật
bảo A Nan:
-
Nay ông nghe kỹ, ta sẽ nói cho ông, có mười pháp vãng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hòng được
giải thoát. Thế nào là mười?
Một là quán thân chánh niệm, thường đem
lòng hoan hỷ, dùng thức ăn, y phục thí Phật và Tăng,
vãng sanh cõi Phật A Di Đà.
Hai là chánh niệm, dùng thuốc cam lộ tốt
lành, thí cho một vị tỳ-kheo mắc bịnh và hết
thảy, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.
Ba là
chánh niệm, chẳng hại một sanh mạng, từ bi đối
với hết thảy, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.
Bốn
là chánh niệm, từ nơi thầy thọ giới, tịnh
huệ tu phạm hạnh, thường ôm lòng hoan hỷ, vãng
sanh cõi Phật A Di Đà.
Năm
là chánh niệm, hiếu thuận cha mẹ, kính thờ sư
trưởng, chẳng khởi tâm kiêu mạn, vãng sanh cõi Phật
A Di Đà.
Sáu là
chánh niệm, đi đến tăng phường, cung kính
chùa tháp, nghe pháp hiểu một nghĩa, vãng sanh cõi Phật
A Di Đà.
Bảy
là chánh niệm, trong một ngày một đêm, thọ trì Bát
Trai Giới, chẳng phá điều nào, vãng sanh cõi Phật
A Di Đà.
Tám là
chánh niệm, nếu có thể trong tháng chay hoặc trong ngày
chay, xa lìa nhà cửa, thường đến chỗ thầy
lành, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.
Chín
là chánh niệm, thường có thể giữ giới trong
sạch, siêng tu Thiền Định, hộ pháp, chẳng ác
khẩu. Nếu có thể làm được như thế
sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Đà.
Mười
là chánh niệm, nếu đối với đạo vô thượng,
chẳng khởi tâm phỉ báng, tinh tấn trì tịnh giới,
lại dạy kẻ vô trí, lưu truyền kinh pháp này, giáo
hóa vô lượng chúng sanh, những người như thế
thảy đều được vãng sanh cõi Phật A Di
Đà.
Lúc
bấy giờ, mười phương thế giới chấn
động sáu cách, trời mưa hoa quý đẹp, hết
thảy các Bồ Tát trong mười phương cõi Phật
đều nhóm đến trong hội này, một lòng nghe pháp.
Trong đại hội có một vị Bồ Tát, tên là Sơn
Hải Huệ, bạch Phật rằng:
- Bạch
Thế Tôn! Cõi Phật A Di Đà kia có những sự vui mầu
nhiệm thù thắng gì mà hết thảy chúng sanh đều
nguyện vãng sanh cõi ấy?
Phật
bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát:
-
Nay ông nên đứng dậy chắp tay, đứng ngay ngắn
hướng về Tây, chánh niệm quán cõi Phật A Di
Đà, nguyện được thấy Phật A Di Đà.
Lúc
bấy giờ, hết thảy đại chúng, cũng đều
đứng dậy chắp tay, cùng quán A Di Đà Phật. Lúc
đó, A Di Đà Phật hiện đại thần thông, phóng
quang minh lớn, chiếu thân Sơn Hải Huệ Bồ
Tát. Lúc ấy, các vị như Sơn Hải Huệ Bồ
Tát v.v… liền thấy tất cả những sự trang
nghiêm diệu hảo trong cõi nước Phật A Di Đà
thảy đều bằng bảy báu: núi bảy báu, tháp bảy
báu, nhà cửa bảy báu, lầu gác bảy báu; nước,
chim, rừng cây thường thốt ra pháp âm. Cây đạo
tràng trong cõi nước ấy cao bốn mươi vạn
do-tuần, dưới cây có tòa sư tử cao năm trăm
do-tuần, A Di Đà Phật ngày ngày thường chuyển
pháp luân. Nhân dân cõi ấy chẳng tu tập việc bên ngoài,
chỉ chân chánh tu tập việc bên trong: miệng nói lời
Phương Đẳng, tai nghe tiếng Phương Đẳng,
tâm hiểu nghĩa Phương Đẳng.
Lúc
bấy giờ, Sơn Hải Huệ Bồ Tát bạch Phật
rằng:
- Bạch
Thế Tôn! Chúng con nay trông thấy lợi ích thắng diệu
chẳng thể nghĩ bàn nơi cõi ấy, con nay nguyện
hết thảy chúng sanh đều được vãng sanh,
rồi sau đấy chúng con cũng nguyện sanh về cõi
ấy.
Phật thọ ký rằng:
- Chánh quán, chánh niệm, đắc chánh giải
thoát, thảy đều sanh về đó.
Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát:
- Ông nay muốn độ hết thảy chúng
sanh thì phải nên thọ trì kinh này.
Phật bảo đại chúng:
- Sau khi ta diệt độ, thọ trì kinh này
trong tám vạn kiếp rộng tuyên nói, lưu truyền, đến
thời ngàn đức Phật trong Hiền kiếp, khiến
khắp các chúng sanh nghe biết, tin ưa tu hành; kẻ nói, kẻ
nghe đều được vãng sanh cõi Phật A Di Đà.
Nếu có những kẻ như thế, ta từ hôm nay trở
đi, thường sai hai mươi lăm vị Bồ
Tát hộ trì người ấy, thường khiến cho người
ấy không bệnh, không khổ, dù là người hay phi nhân
đều chẳng thừa dịp làm hại được,
đi, đứng, nằm, ngồi, bất luận là ngày hay
đêm, thường được an ổn.
Nếu
có chúng sanh tin tưởng sâu xa kinh này, niệm A Di Đà Phật,
nguyện vãng sanh thì đức Phật A Di Đà trong thế
giới Cực Lạc kia bèn sai Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược
Thượng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Pháp Tự
Tại Bồ Tát, Sư Tử Hống Bồ Tát, Đà La Ni
Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Đức Tạng
Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát, Kim Tạng Bồ Tát,
Kim Cang Bồ Tát, Sơn Hải Huệ Bồ Tát, Quang Minh
Vương Bồ Tát, Hoa Nghiêm Vương Bồ Tát, Chúng Bảo
Vương Bồ Tát, Nguyệt Quang Vương Bồ Tát,
Nhật Chiếu Vương Bồ Tát, Tam Muội
Vương Bồ Tát, Tự Tại Vương Bồ Tát,
Đại Tự Tại Vương Bồ Tát, Bạch
Tượng Vương Bồ Tát, Đại Oai Đức
Vương Bồ Tát, Vô Biên Thân Bồ Tát, hai mươi lăm
Bồ Tát ấy ủng hộ hành giả, dù đi hay đứng,
dù nằm hay ngồi, dù ngày hay đêm, trong hết thảy thời,
hết thảy nơi, chẳng cho ác quỷ, ác thần được
thừa dịp làm hại.
Phật lại bảo Sơn Hải Huệ:
- Kinh
này tên là Đổ A Di Đà Phật Sắc Thân Chánh Niệm
Giải Thoát Tam Muội kinh (kinh thấy sắc thân
A Di Đà Phật, chánh niệm giải thoát tam muội), còn
tên là Độ Chư Hữu Lưu Sanh Tử Bát Nạn
Hữu Duyên Chúng Sanh kinh (kinh cứu độ các chúng
sanh hữu duyên trong các cõi sanh tử và tám chỗ nạn),
thọ trì như thế. Chúng sanh chưa có duyên Niệm Phật
Tam Muội thì kinh này có thể mở cửa đại tam
muội, có thể đóng cửa địa ngục cho chúng
sanh, kinh này có thể trừ sạch những kẻ hại,
ác quỷ cho chúng sanh, bốn hướng thảy đều
an ổn.
Phật
bảo Sơn Hải Huệ:
- Như
ta vừa nói, nghĩa ấy như thế.
Sơn
Hải Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:
- Bạch
Thế Tôn! Con nay đảnh thọ (1) kinh cao quý, chẳng
dám nghi ngờ. Nhưng trong đời này và đời mai
sau, có các chúng sanh hay sanh phỉ báng, chẳng tin kinh này, những
kẻ như thế sau này sẽ ra sao?
Phật
bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát:
-
Sau này trong Diêm Phù Đề, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo
ni, hoặc nam, hoặc nữ, thấy có kẻ đọc
tụng kinh này mà nếu như nóng giận, ôm lòng phỉ báng.
Do vì báng chánh pháp, nơi thân hiện tại của người
ấy bị các bệnh nặng dữ, thân căn chẳng
đủ, hoặc là bịnh điếc, bịnh lòa, bịnh
câm, bịnh ngọng, bịnh thất âm, quỷ mị, tà
cuồng, bịnh phong, bệnh rét, sốt, trĩ, thủy
thũng, mất trí, các bệnh nặng dữ như thế,
đời đời mắc phải. Chịu khổ như
thế, ngồi nằm chẳng yên, đại tiện tiểu
tiện cũng đều chẳng thông, cầu sống chẳng
được, cầu chết không xong.
Hoặc
đến khi chết đi, đọa vào địa ngục,
trong tám vạn kiếp, chịu khổ não lớn, trăm
ngàn vạn đời, chưa từng nghe đến tên thức
ăn, nước uống, mãi lâu sau mới được
ra, sanh vào nhân gian, làm trâu, ngựa, heo, dê, bị người
giết hại, chịu đại khổ não. Sau mới được
làm người, thường sanh nhà hạ tiện, trăm
ngàn vạn đời chẳng được tự tại,
mãi chẳng được nghe danh hiệu Tam Bảo. Vì báng
kinh này nên chịu khổ như thế.
Bởi
thế, với kẻ vô trí, đừng nói kinh này; với
người chánh quán, chánh niệm, với người như
thế mới nên nói cho. Những ai chẳng kính kinh này đọa
trong địa ngục. Những ai kính trọng được
chánh giải thoát, vãng sanh nước Phật A Di Đà. Nếu
có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiện
nam tử, thiện nữ nhân, chánh tín kinh này, ưa thích kinh
này, khuyên lơn, chỉ dạy chúng sanh, người nói kẻ
nghe thảy đều vãng sanh cõi nước Phật A Di
Đà. Vì thế, kẻ có lòng tin, sau khi ta diệt độ,
trì kinh pháp này, chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp trong đời
trược ác, rộng tuyên truyền lưu thông, người
ấy chính thật là đệ tử ta, ngay trong thân này đắc
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Phật
nói kinh này xong, tôn giả A Nan, các đại Thanh Văn, và các
tỳ-kheo, Bồ Tát Ma Ha Tát, hết thảy thế gian: trời,
người, A Tu La v.v… nghe lời Phật dạy, đều
hoan hỷ lớn, tin nhận, phụng hành.
Phật thuyết Thập Vãng Sanh A Di
Đà Phật Quốc kinh hết
(Bửu Quang tự đệ tử Như
Hòa dịch xong ngày 24 tháng 07 năm 2004)
(1) Đảnh
thọ: hiểu theo nghĩa đen nhận lấy vật gì
đội lên đầu, hiểu theo nghĩa rộng là cung
kính lãnh thọ, vô cùng tôn trọng, gìn giữ, không dám khinh dễ.
Phiên âm
Phật thuyết Thập Vãng Sanh A Di
Đà Phật quốc kinh
Thất dịch nhân danh
Như thị ngã văn: Nhất thời Phật
tại Vương Xá Thành, Kỳ Xà Quật sơn trung, dữ
đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu, giai thị
đại A La Hán, chúng sở tri thức, kỳ danh viết:
Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha A Na Luật Đà, giai như thị
đẳng nhi vi thượng thủ. Hựu dữ vô
lượng Bồ Tát Ma Ha Tát câu, nhất thiết giai trụ
bất thoái chuyển vị, vô lượng công đức
chúng sở trang nghiêm, kỳ danh viết: Diệu Cát Tường
Bồ Tát, Vô Năng Thắng Bồ Tát, Thường Tinh Tấn
Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, như thị
đẳng chư đại Bồ Tát nhi vi thượng
thủ. Phục hữu Thích Đề Hoàn Nhân, Kham Nhẫn
giới chủ: Đại Phạm Thiên Vương, Tứ
Đại Thiên Vương. Như thị thượng thủ
bách thiên câu chi na dữu đa chư thiên tử chúng, cập
A Tố Lạc đẳng, vị văn pháp cố, giai tất
lai tập, các lễ Phật túc, thoái tọa nhất diện.
Nhĩ thời A Nan bạch Phật ngôn:
- Thế
Tôn thành đạo dĩ lai, vu quảng phu diễn Đại
Thừa kinh điển nhất thiết chúng sanh giải
thoát chi pháp trung, tuyên thuyết Tây Phương Cực Lạc
thế giới vi diệu tối thắng, thanh tịnh
trang nghiêm, A Di Đà Phật bổn thệ trọng nguyện,
bất khả tư nghị công đức, nhất thiết
chúng sanh vãng sanh Cực Lạc thế giới chi pháp, ngã
đẳng đế thính, tín thọ, tu hành, vị văn
quán thân chi pháp, kỳ sự vân hà? Duy nguyện thuyết chi!
Phật
cáo A Nan ngôn:
-
Phù quán thân chi pháp giả, bất quán Đông Tây, bất quán Nam
Bắc, bất quán tứ duy thượng hạ, bất
quán hư không, bất quán ngoại duyên, bất quán nội
duyên, bất quán thân sắc, bất quán sắc thanh, bất
quán sắc tượng, duy quán vô duyên, thị vi chánh chân quán
thân chi pháp. Trừ thị quán thân, thập phương
đế cầu, tại tại xứ xứ, cánh vô biệt
pháp nhi đắc giải thoát.
Phật
phục cáo A Nan:
-
Đản tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh
niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, hà dĩ cố?
Thí như hữu nhân, tinh tấn trực tâm, đắc
chánh giải thoát. Như thị chi nhân, bất cầu giải
thoát, giải thoát tự chí.
A
Nan phục bạch Phật ngôn:
- Thế
Tôn! Thế gian chúng sanh nhược hữu như thị
chánh niệm giải thoát, ưng vô nhất thiết địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh tam ác đạo dã.
Phật
cáo A Nan:
- Thế
gian chúng sanh bất đắc giải thoát. Hà dĩ cố?
Nhất thiết chúng sanh giai do đa hư thiểu thật,
vô nhất chánh niệm; dĩ thị nhân duyên, địa ngục
giả đa, giải thoát giả thiểu. Thí như hữu
nhân, vu tự phụ mẫu, cập dĩ sư tăng, ngoại
hiện hiếu thuận, nội hoài bất hiếu, ngoại
hiện tinh tấn, nội hoài bất thật. Như thị
ác nhân, báo tuy vị chí, tam đồ bất viễn, vô hữu
chánh niệm, bất đắc giải thoát.
A
Nan phục bạch Phật ngôn:
-
Nhược như thị giả, cánh tu hà thiện căn
đắc chánh giải thoát?
Phật
cáo A Nan:
- Nhữ
kim thiện thính, ngô kim vị nhữ thuyết, hữu Tây
Phương Cực Lạc thế giới thập vãng sanh
pháp, khả đắc giải thoát. Vân hà vi thập?
Nhất
giả, quán thân chánh niệm, thường hoài hoan hỷ,
dĩ ẩm thực, y phục, thí Phật cập Tăng,
vãng sanh A Di Đà Phật quốc.
Nhị
giả, chánh niệm dĩ cam lộ lương dược
thí nhất bệnh tỳ-kheo cập nhất thiết, vãng
sanh A Di Đà Phật quốc.
Tam
giả chánh niệm, bất hại nhất sanh mạng, từ
bi vu nhất thiết, vãng sanh A Di Đà Phật quốc.
Tứ
giả chánh niệm, tùng sư sở thọ giới, tịnh
huệ tu phạm hạnh, thường hoài hoan hỷ, vãng
sanh A Di Đà Phật quốc.
Ngũ
giả chánh niệm, hiếu thuận vu phụ mẫu, kính
phụng vu sư trưởng, bất khởi kiêu mạn
tâm, vãng sanh A Di Đà Phật quốc.
Lục
giả chánh niệm, vãng nghệ vu tăng phường,
cung kính vu tháp tự, văn pháp giải nhất nghĩa, vãng
sanh A Di Đà Phật quốc.
Thất
giả chánh niệm, nhất nhật nhất dạ trung, thọ
trì Bát Trai Giới, bất phá nhất, vãng sanh A Di Đà Phật
quốc.
Bát
giả chánh niệm, nhược năng trai nguyệt, trai
nhật trung, viễn ly vu phòng xá, thường nghệ vu
thiện sư, vãng sanh A Di Đà Phật quốc.
Cửu
giả chánh niệm, thường năng trì tịnh giới,
cần tu vu thiền định, hộ pháp bất ác khẩu,
nhược năng như thị hành, vãng sanh A Di Đà Phật
quốc.
Thập
giả chánh niệm, nhược vu vô thượng đạo,
bất khởi phỉ báng tâm, tinh tấn trì tịnh giới,
phục giáo vô trí giả, lưu bố thị kinh pháp, giáo
hóa vô lượng chúng sanh, như thị chư nhân đẳng
tất giai đắc vãng sanh A Di Đà Phật quốc.
Nhĩ
thời thập phương thế giới lục chủng
chấn động, vũ trân diệu hoa, tha phương
Phật quốc nhất thiết chư Bồ Tát lai tập
thử hội, nhất tâm thính pháp. Đại hội trung
hữu nhất Bồ Tát, danh Sơn Hải Huệ, bạch
Phật ngôn:
- Thế
Tôn! Bỉ A Di Đà Phật quốc, hữu hà diệu lạc
thắng sự, nhất thiết chúng sanh giai nguyện vãng
sanh bỉ?
Phật
cáo Sơn Hải Huệ Bồ Tát:
- Nhữ
kim ưng đương khởi lập hiệp chưởng,
chánh thân hướng Tây, chánh niệm quán A Di Đà Phật
quốc, nguyện kiến A Di Đà Phật.
Nhĩ
thời, nhất thiết đại chúng diệc giai khởi
lập, hiệp chưởng, cộng quán A Di Đà Phật.
Nhĩ thời, A Di Đà Phật hiện đại thần
thông, phóng đại quang minh, chiếu Sơn Hải Huệ
Bồ Tát thân. Nhĩ thời, Sơn Hải Huệ Bồ
Tát đẳng, tức kiến A Di Đà Phật quốc
độ, sở hữu trang nghiêm diệu hảo chi sự,
giai tất thất bảo, thất bảo sơn, thất
bảo tháp, thất bảo phường, thất bảo
lâu các, thủy, điểu, thọ lâm, thường thổ
pháp âm. Bỉ quốc đạo tràng thọ cao tứ thập
vạn do-tuần, thọ hạ hữu sư tử tòa, cao
ngũ bách do-tuần, A Di Đà Phật nhật nhật
thường chuyển pháp luân. Bỉ quốc nhân dân, bất
tập ngoại sự, chánh tập nội sự, khẩu
thuyết Phương Đẳng ngữ, nhĩ thính
Phương Đẳng thanh, tâm giải Phương Đẳng
nghĩa.
Nhĩ
thời, Sơn Hải Huệ Bồ Tát bạch Phật
ngôn:
- Thế
Tôn! Ngã đẳng kim giả, đổ kiến bỉ quốc
thắng diệu lợi ích, bất khả tư nghị,
kim ngã nguyện nhất thiết chúng sanh, tất giai vãng
sanh, nhiên hậu ngã đẳng diệc nguyện sanh bỉ
quốc.
Phật
ký chi viết:
-
Chánh quán, chánh niệm, đắc chánh giải thoát, giai tất
sanh bỉ.
Phật
cáo Sơn Hải Huệ Bồ Tát:
- Nhữ
kim dục độ nhất thiết chúng sanh, ưng
đương thọ trì thị kinh.
Phật
cáo đại chúng:
- Vu
ngã diệt hậu, thọ trì thị kinh, bát vạn kiếp
trung, quảng tuyên lưu bố, chí Hiền kiếp thiên Phật,
sử chư chúng sanh phổ đắc văn tri, tín nhạo
tu hành. Thuyết giả, thính giả giai đắc vãng sanh
A Di Đà Phật quốc. Nhược hữu như thị
đẳng nhân, ngã tùng kim nhật, thường sử nhị
thập ngũ Bồ Tát hộ trì thị nhân, thường
linh thị nhân vô bệnh vô não. Nhược nhân, nhược
phi nhân bất đắc kỳ tiện, hành trụ tọa
ngọa, vô vấn trú dạ thường đắc an ổn.
Nhược
hữu chúng sanh thâm tín thị kinh, niệm A Di Đà Phật,
nguyện vãng sanh giả, bỉ Cực Lạc thế giới
A Di Đà Phật, tức di Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược
Thượng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Pháp Tự
Tại Bồ Tát, Sư Tử Hống Bồ Tát, Đà La Ni
Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Đức Tạng
Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát, Kim Tạng Bồ Tát,
Kim Cang Bồ Tát, Sơn Hải Huệ Bồ Tát, Quang Minh
Vương Bồ Tát, Hoa Nghiêm Vương Bồ Tát, Chúng Bảo
Vương Bồ Tát, Nguyệt Quang Vương Bồ Tát,
Nhật Chiếu Vương Bồ Tát, Tam Muội
Vương Bồ Tát, Tự Tại Vương Bồ Tát,
Đại Tự Tại Vương Bồ Tát, Bạch
Tượng Vương Bồ Tát, Đại Oai Đức
Vương Bồ Tát, Vô Biên Thân Bồ Tát, thị nhị thập
ngũ Bồ Tát, ủng hộ hành giả, nhược
hành, nhược trụ, nhược tọa, nhược
ngọa, nhược trú, nhược dạ, nhất thiết
thời, nhất thiết xứ, bất linh ác quỷ, ác thần
đắc kỳ tiện dã.
Phật
hựu cáo Sơn Hải Huệ:
- Thị
kinh danh vi Đổ A Di Đà Phật Sắc Thân Chánh Niệm
Giải Thoát Tam Muội kinh, diệc danh Độ Chư Hữu
Lưu Sanh Tử Bát Nạn Hữu Duyên Chúng Sanh kinh, như
thị thọ trì. Chúng sanh vị hữu Niệm Phật
Tam Muội duyên giả, thị kinh năng dữ tác khai
đại tam-muội môn, thị kinh năng dữ chúng sanh
bế địa ngục môn, thị kinh năng dữ chúng
sanh trừ hại nhân ác quỷ điễn diệt, tứ
hướng giai tất an ổn.
Phật
cáo Sơn Hải Huệ:
- Như
ngã sở thuyết, kỳ nghĩa như thị.
Sơn
Hải Huệ Bồ Tát bạch Phật ngôn:
- Thế
Tôn! Ngã kim đảnh thọ tôn kinh, bất cảm hữu
nghi. Nhiên vu kim thế, cập vị lai thế, chư hữu
chúng sanh, đa sanh phỉ báng, bất tín thị kinh, như
thị chi nhân, vu hậu vân hà?
Phật
cáo Sơn Hải Huệ Bồ Tát:
- Vu
hậu Diêm Phù Đề, hoặc hữu tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
nhược nam, nhược nữ, kiến hữu độc
tụng thị kinh giả, hoặc tương sân nhuế,
tâm hoài phỉ báng. Do thị báng chánh pháp cố, thị nhân
hiện thân chi trung, đắc chư ác trọng bệnh,
thân căn bất cụ, hoặc đắc lung bệnh,
manh bệnh, ám bệnh, á bệnh, thất âm bệnh, quỷ
mị, tà cuồng, phong, lãnh, nhiệt, trĩ, thủy
thũng, thất tâm, như thị đẳng giả
chư ác trọng bệnh, thế thế tại thân. Như
thị thọ khổ, tọa ngọa bất an, đại
tiểu tiện lợi diệc giai bất thông, cầu sanh
bất đắc, cầu tử bất đắc. Hoặc
nãi chí tử, đọa vu địa ngục bát vạn kiếp
trung, thọ đại khổ não, bách thiên vạn thế,
vị tằng văn thủy thực chi danh. Cửu hậu
đắc xuất, sanh tại nhân trung, tác ngưu, mã,
trư, dương, vị nhân sở sát, thọ đại
khổ não. Hậu đắc nhân thân, thường sanh hạ
tiện, bách thiên vạn thế bất đắc tự tại,
vĩnh bất văn Tam Bảo danh tự. Vị báng thị
kinh cố, thọ khổ như thị.
Thị
cố, vô trí nhân trung, mạc thuyết thị kinh. Chánh quán,
chánh niệm, như thị chi nhân, nhiên hậu dữ thuyết.
Bỉ thử bất kính thị kinh, đọa vu địa
ngục, bỉ thử kính trọng, đắc chánh giải
thoát, vãng sanh A Di Đà Phật quốc. Nhược hữu
tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiện
nam tử, thiện nữ nhân, chánh tín thị kinh, ái nhạo
thị kinh, khuyến đạo chúng sanh, thuyết giả,
thính giả, giai tất vãng sanh A Di Đà Phật quốc.
Thị cố hữu tín giả, ngã diệt hậu thọ
trì thị kinh pháp, chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp
trược ác thế trung, quảng tuyên lưu bố, thị
nhân tức vi chân ngã đệ tử, hiện thân tức
đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Phật
thuyết thử kinh dĩ, tôn giả A Nan, chư đại
Thanh Văn, cập chư tỳ-kheo, Bồ Tát Ma Ha Tát, nhất
thiết thế gian thiên, nhân, A-tu-la đẳng, văn Phật
sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng
hành.
HẾT
0 Kommentare:
Kommentar veröffentlichen