"Nghĩa là ta đem, mang đồ đến Chùa,
đến Đạo tràng, Tịnh xá, Thiền viện hay Niệm Phật đường... với một
cái tâm bỏn sẻn, tâm truy cầu, tâm so đo, tâm thụ hưởng... vì thế khi
những món đồ chúng ta mang tới đó bỗng dưng biến mất trước mắt
chúng ta, ngay lập tức chúng ta nổi sân, rồi thốt lên những lời nói,
hành vi thiếu dung dị (ngoài sự kiểm soát), khiếm nhã, rồi sanh tâm
buồn, nản, thất vọng, thoái lui..."
Huệ Tâm
- Bác ơi! Bác làm ơn cho
cháu hỏi: Đĩa hoa quả cháu để cúng Phật ở chỗ kia, đâu mất rồi hả
bác?
- Cô ơi! Đĩa bánh cháu
đem đến để cúng Phật, vừa rồi còn
trông thấy, nhưng bây giờ cháu quay lại lấy lại không thấy đấu nữa?
- Chị ơi! Những đồ chay
em mang đến từ nhà để cúng Phật, sao bây giờ không thấy đâu nữa hả
chị?
- Chú! Chú làm ơn cho
tôi hỏi: Đồ tôi cất công làm từ
nhà, rồi mang tới đây để làm lễ, cúng Phật, định bụng sẽ xin về cho
người nhà dùng, sao bây giờ mất tiêu rồi hả chú?
- Em, cho chị hỏi: Đồ
mang đến đây cúng, có được lấy lại, mang về nhà không?
- Kỳ cục quá đi! Đồ tôi
mang cúng Phật, tôi vừa ra ngoài một chút thôi, trở lại đã thấy mấy
tiêu rồi.
- Ơ, đĩa bánh trái, hoa
quả tôi để đây, đâu mất rồi? Chị ơi, có biết ai lấy đĩa bánh và hoa
quả của em không chị? v.v...
Trên đây chỉ là một trong
vô số những câu hỏi tương tự, cùng những cử chỉ, lời nói khá bức
xúc được đặt ra từ những người „bị mất đồ“ Cúng Dường Phật.
Nếu để ý đôi chút chúng
ta sẽ nhận thấy, thông thường và đặc biệt là trong các dịp Lễ, Tết
các Phật tử có tâm thường hay mua hương, hoa quả, hoặc tự làm bánh
trái, đồ chay... rồi mang đến chùa, tịnh xá, thiền viện, niệm Phật
đường... để cúng Chư Phật, Chư Bồ Tát và Chư Tăng. Hẳn ai ai cũng đinh
ninh (mang trong lòng) một mối hy vọng: Phật, Bồ Tát sẽ hiển linh, sẽ
chứng minh cho tấm lòng thành của mình, mà gia hộ cho mình, cho thân
quyến... của mình có một cuộc sống thịnh đạt, sung túc và bình an
hơn...
Trong thời đại ngày nay –
nơi giá trị vật chất vốn được xem, được đặt lên hàng cao nhất, để
làm được những việc đó và làm một cách thường xuyên đã là một
điều đáng quý, đáng trân trọng lắm rồi. Tuy nhiên nếu chúng ta không
để tâm tìm hiểu kỹ về ý nghĩa đích thực của việc Cúng Dường Chư
Phật, tất sẽ có nhiều mâu thuẫn nội tâm xảy ra, từ đó sẽ khiến cho
tâm của chúng ta – những người phát tâm đến Cúng Dường Chư Phật thêm
bức xúc và bấn loạn.
Để hiểu rõ ngọn ngành
sự việc, có lẽ chúng ta nên đặt ra một số câu hỏi:
- Cúng Dường là gì? Tại
sao chúng ta – những người Phật tử lại phải năng làm việc đó? Ý nghĩa
đích thực và lợi lạc của việc Cúng Dường?
Cúng Dường nói cho đúng đó là hành vi (cao nhất) tối thượng của hạnh
Bố Thí. Bố thí=cho, tặng, biếu, hiến, dâng. Nhưng Bố Thí vốn có hai
nghĩa đối lập: Bố Thí Thế Gian và
Bố Thí Ba La Mật.
Thế nào là Bố Thí Thế Gian? Bố Thí Thế Gian là cho, biếu, tặng,
hiến, dâng với một cái tâm không hoan hỉ; so đo, toan tính thiệt hơn,
lợi-hại, thắng-thua, hay với cái tâm bề trên, thương hại...
Còn Bố Thí Ba La Mật? Bố Thí nghĩa Phạn Ngữ là (Dàna) và
Ba-la-mật là (Paramità). Theo âm dịch trong Kinh Bát Nhã thì Para=Bến bờ kia; và Mi=đi đến. Như vậy cụm từ: Bố Thí Ba La Mật=Cho, tặng, biếu,
hiến, dâng = không mong hoàn lại. Nói sâu hơn: Đó là hành vi của
việc buông xả. Buông xả điều gì?
Buông xả hành vi: cho, tặng, biếu, hiến, dâng của chính mình.
Qua sông nên bỏ lại bè - Ảnh mang tính minh hoạ
Để hiểu cặn kẽ ý nghĩa
đích thực của hành vi Bố Thí này, chúng ta cần trở ngược lại hành
vi Bố Thí Thế Gian. Đơn cử, khi chúng ta cho (biếu, tặng, hiến, dâng) ai
một vật hay một điều gì đó, nhưng hành vi đó xuất phát từ lòng thương
hại, từ sự ganh đua, hay vì danh, vì lợi, vì muốn chứng tỏ cho thiên
hạ biết mình thế này, mình thế nọ, vì mong cho mình, cho gia đình
mình điều này, điều nọ... Hành vi ấy không thể gọi là Bố Thí. Nói
chính xác, đó là: Bố Thí Thế
Gian. Nghĩa là còn có qua, có lại; có tâm truy cầu, tâm hưởng
dụng, tâm cho và tâm người được cho... Ngược lại, Bố Thí Ba-la-mật xuất phát từ cái Tâm Buông Xả,
Tâm Từ Bi, Tâm Lợi Lạc Chúng Sanh mà làm. Trong kinh Kim Cang Bát Nhã
Ba La Mật Đức Phật chỉ cho Ngài Tu Bồ Đề về hành vi Bố Thí như sau: „Tu
Bồ Đề! Lại nữa, vị Bồ Tát, đúng nơi pháp, phải nên không có chỗ
trụ trước mà làm việc bố thí. Nghĩa là không trụ trước nơi hình
sắc mà bố thí, không trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà bố
thí. Này, Tu Bồ Đề! Vị Bồ Tát phải nên bố thí như thế, chẳng trụ
trước nơi tướng. Tại vì sao? Vì nếu vị Bồ tát không trụ trước nơi
tướng mà bố thí, thời phước đức không thể suy lường“.
Thế nào là đúng nơi pháp? Đúng nơi pháp là không có chỗ trụ trước nơi tướng. Trở
lại với ví dụ nêu trên: Ta cho, tặng, biếu, hiến, dâng ai đó một món
quà, món đồ... nhưng không xuất phát từ cái tâm Buông-xả, nghĩa là:
vì yêu thích, vì quí mến, vì danh, lợi, vì ganh đua, vì kẻ cả... mà
làm=không đúng pháp=trụ nơi tướng mà làm; ngược lại, chúng ta làm
những việc ấy bằng cái tâm Buông-xả: không vì mưu cầu danh lợi, ganh
đua, hay thân, tín, quý mến, yêu thích...=Bố Thí Ba La Mật. Như vậy Bố
Thí Ba La Mật lúc này hiểu theo đúng nghĩa Phật dạy: Ta đã làm một
việc, nhiều việc mà không cần, không còn mảy may truy cầu, hưởng
dụng, danh lợi...cho bản thân=Qua bến Bờ Kia=Ta đã thực sự qua sông
rồi - qua sông rồi, mang thuyền, bè (mong cầu sự lợi lạc) làm chi
nữa, cho nặng=Phước Đức Vô Lượng. Ngược lại, ta, chúng ta đã, hoặc
đang bị kẹt giữa sông, và sẽ có nguy cơ bị chìm đắm ngay trên con sông
đó.
Con Sông được ví cho sự vướng kẹt: vì tham, vì sân, vì si, vì phân
biệt, chấp trước, ngã mạn. Vượt qua được Con Sông đó chúng ta mới thực sự Đến Được Bến Bờ Kia=Giải Thoát.
Trở lại với những vấn
nạn phần đầu, chúng ta thấy sở dĩ có những việc, những lời nói,
hành động còn xảy ra như vậy, vì chúng ta chưa hiểu rõ ý nghĩa cao
cả của việc Cúng Dường Chư Phật. Nghĩa là ta đem, mang đồ đến Chùa,
đến Đạo tràng, Tịnh xá, Thiền viện hay Niệm Phật đường... với một
cái tâm bỏn sẻn, tâm truy cầu, tâm so đo, tâm thụ hưởng... vì thế khi
những món đồ chúng ta mang tới đó bỗng dưng biến mất trước mắt
chúng ta, ngay lập tức chúng ta nổi sân, rồi thốt lên những lời nói,
hành vi thiếu dung dị (ngoài sự kiểm soát), khiếm nhã, rồi sanh tâm
buồn, nản, thất vọng, thoái lui...
Câu hỏi cần đặt ra: Chư
Phật, Chư Bồ Tát có thực sự cần đến những món đồ mà chúng ta mang
tới cúng dường hay không? Hoàn toàn không. Nói chính xác: Chư Phật,
Chư Bồ Tát không hề cần, và cũng không mong cầu chúng ta mang đến
những món đồ đó. Bởi nếu còn tâm mong cầu, nghĩa là còn trụ, còn
vướng mắc, còn kẹt nơi tướng, thì đó không phải là Chư Phật và Chư
Bồ Tát. Trong Kinh Vô Lượng Thọ Phật Thích Ca đã nói về cảnh giới
của Chư Phật và Bồ Tát ở cõi Cực Lạc như sau: „Những chúng sanh ở cõi Cực
Lạc đều có hình mạo đoan nghiêm, phước đức vô lượng, trí huệ sáng
suốt, thần thông tự tại, các thứ thọ dụng thảy đều đầy đủ, phong
phú vô cùng. Cung điện phục sức, hương hoa phan cái thảy đều trang
nghiêm, các sự cần dùng đều theo ý muốn. Khi muốn ăn uống, chén bán
bảy báu tự nhiên hiện đến, trăm thứ thức ăn tự nhiên sung mãn, tuy có
đồ ăn nhưng chẳng thật ăn, thấy sắc ngửi hương, ăn bằng ý tưởng. Sắc
lực tăng trưởng, không có tiện uế, thân tâm nhẹ nhàng, không tham đắm
vị. Đến lúc ăn xong, đồ dùng biến mất, khi đến thời ăn thì lại hiện
ra“ (Kinh Vô Lượng Thọ, Phẩm 19 – Thọ Dụng Đầy Đủ). Vậy nhưng
tại sao Phật, Bồ Tát thường khuyến tấn chúng ta phải năng, phải
thường xuyên Cúng Dường? Không ngoài ý nghĩa cao cả nào khác: Phật,
Bồ Tát muốn chỉ dạy cho chúng ta: Hãy biết Buông-Xả, hãy biết từ
bỏ tâm tham-ái, tâm chấp trước, tâm cưỡng cầu, tâm si mê (ngỡ là cúng
đồ này, mang đồ nọ đến chùa, tịnh xá, đạo tràng... sẽ được Phật,
Bồ Tát gia hộ, hay độ cho điều này, điều nọ...). Gộp chung lại: Chúng
ta hãy làm mọi việc bằng cái Tâm Từ-Bi-Hỉ-Xả.
Đoạn ác, tu thiện chính
là khởi Tâm Từ; Không sát sanh,
mà phóng sanh chính là khởi Tâm Bi;
Làm những việc mà người khác thoái thác, chối bỏ, hoặc không muốn
làm chính là Tâm Hỉ; Giúp
người không điều kiện (làm bạn không thỉnh, không trụ trước nơi tướng)
chính là Tâm Xả. Làm được
những việc đó một cách viên mãn chính là chúng ta đang Cúng Dường
Chư Phật, Chư Bồ Tát, và cũng là Cúng
Dường (Bố Thí) Ba La Mật. Ngược lại, như Đức Phật nói trong Kinh
Kim Cang: „Này Tu Bồ Đề! Nếu tâm
của Bồ Tát trụ trước nơi pháp mà làm việc bố thí, thời như người
vào chỗ tối tăm, liền không thấy đặng chi cả. Nếu tâm của Bồ Tát
không trụ trước nơi pháp mà làm việc bố thí, thời như người có mắt
sáng, lại có ánh sáng của mặt trời chiếu đến liền thấy các thứ
hình sắc“. Mắt sáng chính là Tâm Đạo; Ánh sáng của mặt trời là quang chiếu của Phật và Bồ Tát
và các thứ hình sắc là công
đức vô lượng.
Nên chăng chúng ta năng và thường quán
chiếu: Cúng Dường bằng cái tâm Từ-Bi-Hỉ-Xả.
01.2014 Huệ Tâm
0 Kommentare:
Kommentar veröffentlichen