"Chúng ta tu hành theo pháp
của Phật không ngoài một chân nghĩa nào khác đó là thắp sáng lại
tự tánh – tìm lại Phật Tánh trong mỗi chúng ta. Do vậy việc chúng ta
tìm lại được tự tánh của chính mình không phải là một phát minh,
hay chứng đắc gì cả mà nó chỉ mang một ý nghĩa vô cùng giản đơn: Ta Đã Tìm Lại Được Chính Mình..."
Trở lại với chuyện niềm vui, sung sướng, hạnh phúc cũng chính
là phiền não. Đức Phật đã từng nói: „Hãy nhìn vào tất cả các vật thể
chung quanh xem có vật thể nào trường tồn hay chăng? Có vật thể nào không phải
là những cấu hợp sinh ra hay không? Tất cả sẽ gẫy nát, tan rã và phân tán…“
(Lời dặn dò cuối cùng của Phật). Nếu ta quán chiếu lời Phật dạy,
ta thấy: Phiền não và Bồ-đề là duyên sanh, thì tương tự,
Bồ-đề -Phiền não cũng chính
là duyên sanh. Có sanh, tất có diệt. Có diệt tất có sanh. Làm thế
nào để đoạn diệt Phiền não và Bồ-đề luôn phát khởi trong tâm, điều
này phụ thuộc vào sự quán chiếu và giác ngộ tâm của mỗi chúng ta.
Hãy lấy một ví dụ nhỏ để chúng ta cùng suy ngẫm.
Ví thử có ai đó tặng chúng
ta một món quà rất quý và mắc tiền – điều mà nhiều khi chúng ta
còn đang phải mơ ước để có được. Nếu đơn giản người tặng hoan hỉ
tặng; người nhận cũng hoan hỉ nhận, xong rồi thì thôi, hẳn đôi bên
lúc ấy đều cảm thấy rất vui, rất sung sướng và tự hào khi làm được
một việc hữu ích cho nhau và khi đón nhận được món quà đó. Nhưng
người tặng quà chúng ta lại không làm điều đó, mà khi trao món quà
cho chúng ta họ kèm thêm một lời đề nghị: Cô, bác, anh, chị… nhớ
nhé. Món quà này quý và mắc tiền lắm đấy. Tôi phải thế này, tôi
phải thế nọ mới có, mới mua được. Vì thế cô, bác, anh, chị… phải
ráng giữ gìn cho cẩn thận nghe. Đừng có bán, cũng đừng cho ai mượn
hay làm hỏng hóc nó. Để thỉnh thoảng gặp lại, tôi còn được nhìn
thấy nó… Khi tâm chúng ta đối với cảnh huống đó, chắc chắn niềm vui,
hạnh phúc và niềm tự hào sẽ vội qua mau, thế vào đó là cảm giác
nhột nhạt (vui-buồn) lẫn lộn diễn ra trong tâm. Không lấy thì sợ
người tặng mình phật lòng, rồi bảo mình nghèo, không có còn sĩ. Nhưng
lấy rồi cũng giống như người bị mắc nợ, và cũng bị cái điều kiện
nêu trên nó ràng buộc, rồi nhiều khi cũng chẳng còn đủ tự tin để mà
xử dụng món quà quý hiếm đó nữa. Còn người tặng chúng ta với tâm
trạng muốn người khác phải làm theo ý mình, và lo sợ món quà mình
tặng sẽ không được gìn giữ như ý, tất nhiên trong lòng không thể nói
sung hỉ được. Vậy là ý niệm vui (hỉ lạc trong tâm) giữa người Cho và Nhận mới chỉ kịp nhen nhóm, mới chỉ kịp khởi lên thôi, và
chưa kịp định hình thì ngay lập tức niềm hỉ lạc đó đã bị chính
mình dập tắt. Nói khác đi: khoảng cách giữa vui (hỉ lạc) và buồn
(phiền não) vốn chỉ trong một niệm, gang tấc. Do vậy người Trí-Giác là luôn biết quán chiếu
vạn vật trong từng niệm niệm. Một niệm Ngu khởi lên=niệm Phàm
phu. Ta nhận biết đó là niệm Phàm phu và chỉ cần buông xả ngay cái
niệm đó, không chạy theo, không nắm giữ, không truy cầu, không suy diễn,
tất tâm chúng ta sẽ tịnh lặng. Niệm niệm quán chiếu được như vậy,
tất niệm niệm ấy là Trí-Giác, là niệm niệm tương ưng với Phật và
lúc ấy Phật tánh sẽ hiện tiền (cảm giác thân nhẹ, an nhiên, tự tại,
cảnh vật xung quanh hoàn toàn tịch lặng…). Khi cảnh giới này xuất
hiện là lúc chúng ta đã tìm thấy lại được tự tánh của chính mình.
Câu hỏi được đặt ra: Ai cướp,
đánh mất tự tánh của chúng ta? Câu trả lời: Chính chúng ta chứ không
ngoài ai khác. Điều này chúng ta nhận ra được và nhận ra một cách
rõ nét nhất là khi chúng ta ngồi xuống để niệm Phật. Nếu niệm Phật
mà đầu đau như búa bổ; cổ họng bỏng rát, môi khô, thân đau nhức… thì
lúc ấy tự tánh (tánh Phật) trong chúng ta đã bị vô minh
(tham-sân-si-chấp trước, ngã mạn) che lấp. Ngược lại chúng ta có được
cảm giác an lạc, nhiều khi ngỡ mình đang lạc vào thế giới khác để
rồi hoặc là giật mình hoảng sợ, hoặc là tham đắm, đeo đuổi cảnh
giới đó đến độ cảnh giới đó vụt tan biến mất… Do vậy người niệm
Phật khi gặp được cảnh giới đó cũng không cần phải quá hoan hỉ hay
lo âu; trái lại chỉ cần Quán – Khởi một niệm Biết: À ta đã tìm lại được tự tánh của chính mình rồi
hay: À, ta đã xua tan vô minh, giúp cho tự tánh của ta hiện tiền lại rồi.
Vậy là đủ! Và tiếp tục nhiếp tâm để niệm Phật. Nếu như chúng ta có
thể giữ được sự Trí-Giác như vậy trong suốt buổi niệm Phật, niệm
niệm nối tiếp, ngày ngày nối tiếp… tất những phiền não trong tâm
chúng ta sẽ dần dần biến mất. Nói khác đi: Những Phiền não trong tâm
của chúng ta đã được chính chúng ta dùng Trí-Giác để hoá giải, thế
vào đó là tự tánh của chúng ta đã hiện tiền.
Chúng ta tu hành theo pháp
của Phật không ngoài một chân nghĩa nào khác đó là thắp sáng lại
tự tánh – tìm lại Phật Tánh trong mỗi chúng ta. Do vậy việc chúng ta
tìm lại được tự tánh của chính mình không phải là một phát minh,
hay chứng đắc gì cả mà nó chỉ mang một ý nghĩa vô cùng giản đơn: Ta Đã Tìm Lại Được Chính Mình.
Dĩ nhiên để làm được việc
đó không chỉ ngày một, ngày hai là chúng ta đã đạt được, trái lại
nó là cả một quá trình tu-hành không mỏi mệt mà chúng ta phải dũng
mãnh vượt qua.
Phật dạy: „Tâm thức có khả năng biến một con người thành một vị Phật hay một con
thú. Khi rơi vào sự lầm lẫn, ta có thể trở thành quỷ sứ, nhưng khi Giác ngộ ta
sẽ thành Phật. Vì thế, các con phải kiểm soát lấy tâm thức các con và không đi
lạc ra ngoài Chính Đạo…“ (Lời dặn cuối cùng của Phật khi nhập
Niết-Bàn).
Người tu sau chưa chắc đã là
người đến chậm. Người niệm Phật là người biết tìm cách để hoá
giải những Phiền Não – những Người
Bạn Không Hiền đã gắn chặt với chúng ta từ vô lượng kiếp tới nay
chứ không phải tìm cách để trốn chạy những người bạn này.
Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Tự tâm phiền não vô biên thệ nguyện đoạn
Tự tánh pháp môn vô tận thệ nguyện học
Tự tánh vô thượng Phật Đạo
thệ nguyện thành
(Tứ Hoằng Thệ Nguyện – Tổ
Huệ Năng)
Chúng sanh là ai? Là chính
chúng ta, là ta, là niệm niệm vô minh - Tham-Sân-Si-Chấp trước-Ngã mạn
trong mỗi chúng ta mà chúng ta phải tự độ, nguyện độ và nguyện đoạn
cho chính mình.
Mùa Vu Lan 08.2013 –Thiện Lợi
0 Kommentare:
Kommentar veröffentlichen