"Qua đó chúng ta có thể kết luận: Bố, Mẹ cũng như Phật, Bồ
Tát dẫu có từ bi tới đâu cũng không thể độ, không thể gánh,
không thể chuộc phần nào tội lỗi cho chúng ta, cho chúng sanh..."
Chúng ta thường nghe: Này! Đến miếu “A”, Đền “B”, Đình “C” mà
dâng lễ. Nơi ấy thiêng lắm. Hay: Chùa ở tỉnh này, tỉnh nọ cũng
linh thiêng ghê. Dân ở mọi nơi ai ai cũng đều sính lễ to lắm,
rồi rồng rắn kéo nhau tới cúng, viếng, xin lộc… Ở những chùa
này Phật và Bồ Tát nhiều, nên cực thiêng...
Thực ra đó chỉ là sự đồn, thổi của thiên hạ, chứ thực tình,
ai được Phật, được Bồ Tát độ trì cho ăn nên, làm gia, hay của
cải dồi dào, quyền cao chức trọng, lộc hưởng tận không hết…
thì chẳng mấy ai được mục sở thị.
Ta hãy cứ cho những lời đồn thổi nói trên là có căn cứ, nhưng
thực tế, những người được thọ lộc ấy cũng chỉ đếm trên đầu
ngón tay, nếu không nói: chỉ là con số 1%/1000.000 (con số giả
tạm) - vô cùng ít ỏi.
Có hai vấn đề cần đặt ra ở đây:
1. Liệu con số 1% nói trên có thực sự được thọ lộc từ các Chư Phật, hay Bồ Tát?
2. Sau khi được thọ lộc rồi con số 1% đó sẽ làm gì?
Thực ra khi đặt ra câu hỏi thứ nhất chúng ta đã thấy nó hoàn
toàn mang tính giả tưởng, nếu không nói là vọng ngôn. Bởi thực
tế thì không có Chư Phật hay Bồ Tát nào lại đi làm những
chuyện mang màu sắc dục của chúng sanh như vậy cả. Do vậy sở
dĩ có con số 1% được thọ lộc kia, ta nên hiểu một cách sâu xa
hơn: Đó chính là những phước nghiệp mà họ được hồi báo trong
kiếp này. Sao gọi đó là phước nghiệp? Đức Phật từng nói:
"Chúng sanh là chủ nhân, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp
là điểm tựa, là thai tạng, là quyến thuộc , và nghiệp sẽ phân
chia chúng sanh thành kẻ hạ liệt hay cao sang".
Để giải thích vấn đề này không thể dùng một đôi dòng là có
thể diễn giải chọn nghĩa. Nên ở đây tôi chỉ mạn phép nói một
ý nhỏ: Phước Nghiệp.
Nếu coi chúng sanh là “thừa tự của nghiệp”, nghĩa là mạng
sống của chúng ta hiện tại chính là một trang giấy mới của
một trang cũ đã kết thúc. Trang giấy cũ, nếu ta cẩn thận, nắn
nót từng dòng, từng chữ, và giữ cho nó luôn được sáng sủa,
sạch đẹp, mạch lạc, tất khi bước sang một trang mới chúng ta
sẽ có sự thừa hưởng sự phong quang, sạch sẽ đó. Ví dụ xa hơn:
Trang giấy cũ là một trang dùng để liệt kê những con số
thu-chi cho một tháng, một năm. Nếu trong một tháng, hay một năm
đã qua ta biết kiểm soát, theo dõi, tính toán một cách sát sao
con số thu-chi, tất khi tổng kết trang ta sẽ dễ dàng nhận ra
được sự thất thoát hay bội thu. Và như vậy, khi ta lật sang một
trang mới, chúng ta đã có sẵn một nền tảng. Lung lay: Nếu ta
thất thu. Và một nền tảng vững chắc: Nếu ta bội thu.
Trở lại những người nằm trong 1% nọ. Họ chính là những chúng
sanh đang thụ hưởng sự bội thu (thành quả) của chính mình (còn
gọi là phước nghiệp) của chính bản thân họ mà (có thể) từ
vô lượng kiếp, hoặc một kiếp gần nhất mà họ đã gắng công tạo
nên, nay duyên tới, nên họ được thụ hưởng cái duyên đó. Như vậy
cái Quả mà họ đang thụ hưởng, chính là nhờ ở sự dày công
tạo phước của họ tự vô lượng kiếp mà nên. Và như vậy: Phước
duyên mà con số 1% kia đang được thụ hưởng đâu phải vì họ mâm
cao cỗ đầy, vì họ năng lễ, năng cầu… nên được được các Đức
Phật hay Bồ Tát rủ lòng thương xót, hay từ bi gia độ. Giả như
Phật hay Bồ Tát làm chuyện đó là có thật, thì con số 99% còn
lại kia chẳng lẽ họ không phải là người? Hay vì họ cúng
dường không “hậu”? không “thành”?...v.v Hiểu như thế là chúng ta
đã tự ví những nơi thờ tự trang nghiêm, thanh tịnh trở thành
nơi mua danh, bán lộc… và nếu quả thật như vậy, thì những nơi
ấy quả là có Phật và Bồ Tát nhưng đó là những Phật và Bồ
Tát giả. Bởi giáo lý chân chính của Phật và Bồ Tát vốn không
dạy chúng sanh làm những chuyện mang tính tham-sân và đầy sắc
dục như vậy.
Trở lại với câu hỏi thứ hai: Cứ cho giả định nên trên là có
thật, nhưng khi con số 1% nêu trên được thọ lộc rồi, họ sẽ làm
gì? Dĩ nhiên, người có tiền sẽ muốn có nhiều hơn. Người có
quyền, chức sẽ muốn quyền chức cao hơn, sang hơn; Người có nhà
cửa, ruộng, vườn, bổng lộc… sẽ mong cầu những thứ đó ngày
một sinh sôi, nảy nở càng nhiều càng ít, ngược lại cũng sẽ
có người vô tư để thụ hưởng những “thọ lộc” mà Phật và Bồ
Tát ban cho… Và để rồi, người mải mê tiêu sài, kẻ mưu cầu bất
tận, vì thế con số 1% nọ sẽ lại trùng trùng lễ phẩm, không
ngơi nghỉ, tiếp tục đến chùa “thiêng” nọ để tiếp tục mưu cầu.
Sẽ có hai giả thiết phải đặt ra. Một là: Họ sẽ tiếp tục
được Phật và Bồ Tát độ trì. Hai là họ sẽ trở về tay trắng.
Một kẻ mưu cầu bất thành chắc chắn không thể nói tâm mình bất
loạn. Ngược lại, nếu được thành tựu, chắc chắn họ sẽ mưu
cầu mãi không thôi. Và không lẽ Phật và Bồ Tát hiện thế chỉ
để làm những điều của những kẻ phàm phu, tục tử như vậy?
Thực sự sẽ là tội lỗi vô cùng nếu chúng ta có những ngộ
nhận, những suy nghĩ mang tính giả định như vậy.
Phật nói: Thế gian có bốn hạng người.
Hạng thứ nhất: Từ tối đi vào tối
Hạng thứ hai: Từ tối đi ra ánh sáng
Hạng thứ ba: Từ ánh đi vào tối
Hạng thứ tư: Từ ánh sáng đi ra ánh sáng
Hạng thứ hai: Từ tối đi ra ánh sáng
Hạng thứ ba: Từ ánh đi vào tối
Hạng thứ tư: Từ ánh sáng đi ra ánh sáng
Sao gọi “từ tối đi vào tối?” – Phật chỉ ra rằng: những chúng
sanh này từ vô lượng kiếp đã chuyên hành tâm bất thiện, trải
qua bao kiếp sanh tử luân hồi… tới nay được trở lại làm người,
nhưng cái tâm bất thiện vẫn luôn hiện hữu, vì vậy những chúng
sanh này vẫn chỉ mải mê làm việc bất thiệt.
Sao gọi “từ tối đi ra ánh sáng?” – Phật cũng chỉ ra rằng:
những chúng sinh này từ vô lượng kiếp đã chuyên hành tâm bất
thiện. Trải qua bao kiếp sanh tử luân hồi… tới nay được trở lại
thân người, vì biết thân người khó được, nên đã giác ngộ rồi
chuyên hành việc thiện, xa lìa việc ác.
Sao gọi “từ sáng đi vào tối?” – Phật cũng chỉ ra rằng: những
chúng sanh này từ vô lượng kiếp đã chuyên tâm hành thiện. Trải
qua bao kiếp sanh tử luân hồi… tới nay được trở lại thân người,
nhưng vì tham-sân-hận đã che đậy chân như, bản tánh thiện sẵn
có của mình, nên đã rắp tâm chuyên hành việc bất thiện.
Sao gọi “từ sáng đi ra sáng?” – Phật cũng chỉ ra rằng: những
chúng sanh này từ vô lượng kiếp đã chuyên tâm hành thiện. Trải
qua bao kiếp sanh tử luân hồi… tới nay được trở lại thân người
nhưng vẫn không quên nhân quả báo ứng, vì vậy một lòng lánh xa
việc ác, chuyên hành việc thiện.
Qua những ví dụ nói trên, chúng ta thấy Phật vốn không dạy
chúng sanh làm những chuyện mang tính sắc dục. Sở dĩ người
thế gian chúng ta có sự khẳng định như trên là vì chúng ta còn
quá vô minh, nên đã tự mê lạc chính mình. Rồi lấy sự mê lạc
đó làm hạnh nguyện sống cho bản thân và những người xung quanh
mình.
Phật vốn không độ chúng sanh, mà chúng sanh phải tự giác ngộ,
tự tu, tự độ chính mình – Tự Tu, tự Hành, tự thành Chánh
Quả.
Điều này chỉ cần chúng ta liên hệ tới mối quan hệ gia đình:
Ông, bà, bố, mẹ là những người sinh ra ta, nuôi, dạy ta và mong
ta khôn lớn, trưởng thành. Nhưng rồi năm, tháng chúng ta lớn lên,
học hành, công, trạng có được thành tựu hay không, vốn hoàn
toàn phụ thuộc vào chính bản thân chúng ta. Ông bà, bố mẹ
thực tế chỉ là những người đưa ta vào đời và giúp chúng ta
những phương tiện sống và học tập. Còn sự thành đạt là hoàn
toàn do chúng ta quyết định. Dĩ nhiên trong thời nay, thời vận
đạo suy vong, sự thành đạt của con cái nhiều khi phụ thuộc vào
sự lo lót của bố mẹ, của ông bà… và như thế, những đứa con
khi bước vào đời cũng sẽ chẳng làm được điều gì hơn, ngoài
việc làm trái với luân thường, đạo lý.
Qua đó chúng ta có thể kết luận: Bố, Mẹ cũng như Phật, Bồ
Tát dẫu có từ bi tới đâu cũng không thể độ, không thể gánh,
không thể chuộc phần nào tội lỗi cho chúng ta, cho chúng sanh.
Phước-tội từ đâu đến? Từ đâu tiêu giải? Đều do tâm chúng ta, tâm
chúng sanh tự phát, tự tán.
Tâm này làm Phật, tâm này là Phật chứ Phật đâu có ngoài chúng sanh?.
23.12 Canh Dần
Huệ Tâm
0 Kommentare:
Kommentar veröffentlichen